Quyết định số 38/2003/hđtp-ds ngày 25-12-2003 về vụ án xin huỷ hợp đồng mua bán nhà và đòi nhà cho

Chủ đề   RSS   
  • #264732 28/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định số 38/2003/hđtp-ds ngày 25-12-2003 về vụ án xin huỷ hợp đồng mua bán nhà và đòi nhà cho

    Số hiệu

    38/2003/HĐTP-DS

    Tiêu đề

    Quyết định số38/2003/hđtp-ds ngày 25-12-2003 về vụ án xin huỷ hợp đồng mua bán nhà và đòi nhà cho

    Ngày ban hành

    25/12/2003

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Dân sự

     

    QUYẾT ĐỊNH SỐ38/2003/HĐTP-DS NGÀY 25-12-2003
    VỀ VỤ ÁN XIN HUỶ HỢP ĐỒNG
    MUA BÁN NHÀ VÀ ĐÒI NHÀ CHO THUÊ

    HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

     .....................       

    Tại phiên toà ngày 25-12-2003 xét xử giám đốc thẩm vụ án dân sự có các đương sự:

    Nguyên đơn: 1. Bà Dương Thị Sắc, sinh 1931; trú tại số 81C Hai Bà Trưng Hà Nội.

    2. Bà Dương Thị Hợi, sinh 1935; trú tại số 90 Nguyễn Khuyến, Hà Nội;

    3. Ông Dương Văn Kiên, sinh 1938; trú tại số 15 tổ 31B Ngọc Hà, Ba Đình, Hà Nội;

    4. Chị Nguyễn Thị Loan, anh Nguyễn Xuân Mai, anh Nguyễn Xuân Phương, chị Nguyễn Thị Hoà, chị Nguyễn Thị Hợp, chị Nguyễn Thị Thu Huyền, anh Nguyễn Xuân Vượng; đều trú tại số l09 tổ 16, phường Ngọc Hà, Ba Đình, Hà Nội; cùng uỷ quyền cho anh Nguyễn Xuân Vượng đại diện.

    Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Đức trú tại nhà số 83 Đội Cấn, Ba Đình, Hà Nội

    Uỷ quyền cho con trai là anh Đỗ An Sơn và chị Vũ Thị Lan đại diện (cùng địa chỉ với bà Đức).

    Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

    1. Anh Nguyễn Minh Châu, sinh năm 1949

    2. Chị Nguyễn Thị Ánh, sinh năm 1950

    Đều trú tại: Số 7 ngõ 123 phố Khương Thượng, Đống Đa, Hà Nội và cùng uỷ quyền cho bà Dương Thị Sắc.

    3. Anh Đỗ An Sơn, sinh năm 1954; trú tại nhà số 83 Đội Cấn, Ba Bình, Hà Nội

    4. Anh Đỗ An Hải, sinh năm 1957

    5. Anh Đỗ Mạnh Hà, sinh năm 1959

    Đều có hộ khẩu tại nhà số 83 Đội Cấn, Ba Đình, Hà Nội

    NHẬN THẤY:

    Theo lời trình bày của các nguyên đơn do ông Kiên đại diện thì ngôi nhà gạch 1 tầng tại nhà số 83 Đội Cấn, Ba Đình, Hà Nội nằm trên thửa đất có diện tích 65m2 thuộc quyền sở hữu của mẹ ông là cụ Trần Thị Kiềm và 04 người con là:

    1. Bà Dương Thị Chính,

    2. Bà Dương Thị Sắc,

    3. Bà Dương Thị Hợi,

    4. Ông Dương Văn Kiên.

    Năm 1959 gia đình ông cho Tổ hợp tác “Tự Cứu” thuê, năm 1963 Tổ hợp tác trả lại nhà. Gia đình ông cho gia đình ông Đỗ Văn Chúc, bà Nguyễn Thị Đức thuê, hàng tháng các con để cụ Kiềm trực tiếp thu tiền nhà và sử dụng số tiền đó để chi tiêu sinh hoạt hàng tháng. Sau khi cụ Kiềm chết (cuối năm 1992), chị em ông (Kiên) đến gặp ông Chúc đặt vấn đề lấy lại nhà thì được ông Chúc cho biết là cụ Kiềm đã bán căn nhà đó cho gia đình ông Chúc và cho xem tờ văn tự bán nhà có ghi tên cụ Kiềm là người bán, nhưng không có người làm chứng, không có dấu xác nhận của cơ quan nhà đất hoặc chính quyền địa phương. Chị em ông rất sửng sốt, nghi ngờ vì chưa bao giờ được cụ Kiềm thông báo hoặc bàn bạc gì về việc bán nhà. Hơn nữa ngôi nhà này là đồng sở hữu của mẹ và 4 người con, nếu có việc mua bán thì các con cũng đều phải được biết và tham gia. Ông Kiên và các nguyên đơn khai rằng từ trước đến nay cụ Kiềm cho thuê nhà lấy tiền dưỡng già. Vì vậy, sau khi cụ Kiềm qua đời thì chị em ông mới đặt vấn đề đòi lại nhà. Nay nếu đúng có việc cụ Kiềm đã bán nhà thì việc mua bán là bất hợp pháp, gây thiệt hại đến quyền lợi của chị em ông. Các nguyên đơn yêu cầu Toà án hủy bỏ hợp đồng mua bán nhà, buộc gia đình bà Đức phải trả lại 4/5 căn nhà.

    Theo bà Đức trình bày thì năm 1963 vợ chồng bà (chồng là ông Đỗ Văn Chúc) có thuê ngôi nhà 83 Đội Cấn, Ba Đình, Hà Nội của cụ Trần Thị Kiềm giá thuê 6 đồng/tháng. Tháng 01-1969 cụ Kiềm bán đứt cả ngôi nhà 83 Đội Cấn nói trên cho gia đình bà với giá 1.200 đồng. Văn tự mua bán nhà được lập ngày 04-01-1969 giữa bên bán là bà Trần Thị Kiềm bên mua là Đỗ Văn Chúc và vợ là Nguyễn Thị Đức.

    Từ năm 1969 gia đình bà đã nhiều lần tu bổ, sửa chữa cải tạo nhà và xây thêm diện tích mà con cháu cụ Kiềm ở xung quanh không phản đối. Hai gia đình vẫn quan hệ bình thường. Năm 1994 (sau khi cụ Kiềm chết), chị em ông Kiên đã kiện gia đình bà để đòi nhà “cho thuê”. Gia đình bà không chấp nhận yêu cầu của các nguyên đơn, vì nhà này vợ chồng bà đã mua từ năm 1969. Gia đình bà đã ở ổn định từ đó đến nay kê khai nhà đất, đóng thuế thổ trạch đầy đủ hàng năm, nhưng chưa làm thủ tục sang tên sở hữu chủ. Các nguyên đơn khởi kiện, nhưng không có bất kỳ giấy tờ gốc nào về ngôi nhà nêu trên để chứng tỏ họ là chủ sở hữu nhà đó. Bà Đức yêu cầu Toà án bác yêu cầu của các nguyên đơn và cho bà làm thủ tục chuyển quyền sở hữu nhà.

    Tại Bản án sơ thẩm số 03/DSST ngày 11-01-2002 Tòa án nhân dân quận Ba Đình đã quyết định:

    Xác nhận ngôi nhà số 83 phố Đội Cấn, Ba Đình, Hà Nội nằm trên thửa đất số 100 tờ bản đồ số 1 khu Ngọc Hà có diện tích 67,18m2là thuộc quyền sở hữu của:

    - Trần Thị Kiềm

    - Dương Văn Kiên

    - Dương Thị Chính

    - Dương Thị Sắc

    - Dương Thị Hợi.

    Có tổng giá trị là 1.085.405.167 đồng (Một tỷ, không trăm tám năm triệu, bốn trăm linh năm nghìn, một trăm sáu bẩy đồng "trong đó có 72.684.167 đồng tiền xây dựng cải tạo của gia đình bà Đức").

    - Chấp nhận yêu cầu của bà Dương Thị Sắc, ông Dương Văn Kiên, bà Dương Thị Hợi và anh Nguyễn Xuân Vượng về việc đòi nhà cho thuê và xin huỷ hợp đồng mua bán nhà trái pháp luật giữa cụ Trần Thị Kiềm với ông Đỗ Văn Chúc và bà Nguyễn Thị Đức.

    - Tuyên bố hợp đồng mua bán nhà 83 Đội Cấn ngày 04-01-1969 giữa cụ Trần Thị Kiềm với ông Đỗ Văn Chúc và bà Nguyễn Thị Đức là vô hiệu một phần.

    - Hủy bỏ một phần hợp đồng mua bán nhà 83 Đội Cấn ngày 04-01-1969 giữa cụ Kiềm với ông Chúc và bà Đức.

    - Ông Dương Văn Kiên, bà Dương Thị Sắc, bà Dương Thị Hợi và các thừa kế của bà Dương Thị Chính (do anh Nguyễn Xuân Vượng thay mặt) được sở hữu và sử dụng 3/5 ngôi nhà 83 Đội Cấn (phần giáp số nhà 85) có (165m ´ 17,9m) + (2,92m ´ 4,45m) = 40,26m2.

    Có trị giá là: 651.243.099 đồng (Sáu trăm năm mươi mốt triệu, hai trăm bốn ba ngàn, không trăm chín chín đồng) và phải thanh toán trả gia đình bà Đức 43.610.499 đồng tiền cải tạo xây dựng nhà.

    - Bà Nguyễn Thị Đức được sở hữu, sử dụng 2/5 ngôi nhà 83 Đội Cấn (phần giáp số nhà 81) có diện tích là: 1,5m x 17,9m = 26,85m2.

    Có trị giá là: 434.162.066 đồng (Bốn trăm ba mươi tư triệu, một trăm sáu hai ngàn, không trăm sáu sáu đồng).

    Trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật gia đình bà Đức, anh Sơn, anh Hải và các thành viên khác trong gia đình phải bàn giao trả lại diện tích 40,26m2 nhà 83 Đội Cấn cho ông Kiên, bà Sắc, bà Hợi, anh Vượng và được nhận 43.610.499 đồng tiền xây dựng cải tạo nhà do phía nguyên đơn thanh toán.

    Phí tổn ngăn nhà hai bên cùng phải chịu.

    Bác các yêu cầu khác của hai bên đương sự.

    Sau khi xét xử sơ thẩm ngày 18-01-2002 ông Kiên, bà Sắc và các thừa kế của bà Chính có đơn kháng cáo; ngày 14-01-2002 bà Đức có đơn kháng cáo:

    Tại Bản án phúc thẩm số 87/DSPT ngày 23-05-2002 Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã quyết định:

    - Về hình thức: Chấp nhận đơn kháng cáo hợp lệ của các nguyên đơn ông Kiên, bà Sắc, bà Hợi, anh Vượng đại diện các thừa kế của bà Chính và đơn kháng cáo hợp lệ của bà Đức.

    - Về nội dung: Sửa Bản án sơ thẩm số 03/DSST ngày 11-01-2002 của Tòa án nhân dân quận Ba Đình và xử như sau:

    1. Xác nhận nhà, đất tại 83 phố Đội Cấn, quận Ba Đình, Hà Nội có diện tích 65,09m2, có tổng giá trị = 1.624.622.997 đồng (trong đó phần xây dựng cải tạo mới của gia đình bà Đức là 57.441.995 đồng, kể cả phần mái tôn mới sửa 12.760.000 đồng là 72.684.167 đồng, thuộc đồng sở hữu của 5 người là: Cụ Trần Thị Kiềm, ông Dương Văn Kiên, bà Dương Thị Sắc, bà Dương Thị Hợi, bà Dương Thị Chính.

    2. Xác nhận cụ Kiềm được sở hữu 1/5 nhà đất tại 83 Đội Cấn có diện tích 13,018m2, có giá trị là 313.436.200đồng, 4 đồng sở hữu khác (bà Sắc, bà Hợi, ông Kiên, bà Chính) được sở hữu 4/5 nhà đất 83 Đội Cấn, có diện tích 52,072m2, có giá trị l.253.744.800 đồng. Bà Chính chết năm 1998, phần sở hữu của bà Chính do các thừa kế của bà Chính được hưởng.

    3. Xác định hợp đồng mua bán nhà 83 Đội Cấn ngày 04-01-1969 giữa cụ Kiềm và ông Chúc, bà Đức là vô hiệu.

    4. Xác nhận cụ Kiềm chết năm 1992, tài sản thuộc sở hữu của cụ Kiềm ngoài 1/5 nhà đất tại 83 Đội Cấn = 13,018m2, có giá trị là 313.436.200 đồng, không còn tài sản nào khác.

    5. Xác định 1/5 nhà đất tại 83 Đội Cấn thuộc sở hữu của cụ Kiềm được thanh toán cho bị đơn do hợp đồng vô hiệu.

    6. Ghi nhận sự tự nguyện của các nguyên đơn (ông Kiên, bà Sắc, bà Hợi và các thừa kế của bà Chính do anh Vượng đại diện) đồng ý cho gia đình bà Đức sở hữu thêm 1/5 nhà 83 Đội Cấn có diện tích 13,018m2, có giá trị 313.436.200 đồng.

    7. Bị đơn được thanh toán hợp đồng vô hiệu+ được sở hữu thêm 2/5 nhà 83 Đội Cấn là 26,036m2 = 626.872.400 đồng.

    8. Ghi nhận sự tự nguyện của các nguyên đơn không yêu cầu bị đơn thanh toán giá trị nhà đất được sở hữu thêm 13,018m2, có giá trị là 313.436.200 đồng, sau khi đã trừ phần nguyên đơn phải thanh toán giá trị xây dựng sửa chữa cho bị đơn là 22.644.829 đồng tại 3/5 diện tích nhà nguyên đơn được sở hữu.

    9. Phần hiện vật:

    Các diện tích được phân chia tính cả tường và diện tích được chia tầng 1 được đóng thẳng lên tầng 2, cụ thể như sau:

    a) Nguyên đơn: Được sở hữu phần diện tích = 3/5 ngôi nhà 83 Đội Cấn giáp nhà 85 Đội Cấn phía tay trái đứng từ đường nhìn vào, có các diện tích sau:

    - Diện tích phòng 1 mặt phố (2 tầng):

     

    + Có chiều rộng giáp hè phố kéo từ tường ngăn với nhà 85 Đội Cấn về phía tay phải là 1,7m.

    + Chiều rộng phía trong giáp với diện tích sân là 1,5m, chiều dài căn phòng 10,4m, diện tích :  x 10,4m = 16,64m2 (giá trị sử dụng đất 399.360.000 đồng, giá trị xây dựng16.303.839 đồng = 415.663.839 đồng.

    + Diện tích sân giáp với diện tích 1 được chia:

    Rộng 1,43m x sân 4m = 5,72m2 (giá trị sử dụng đất là 137.280.000 đồng, giá trị xây dựng 371.800 đồng = 137.651.800 đồng).

    + Tiếp theo diện tích 2 (2 tầng):

    Rộng 1,44m x 3,48m = 5,01m2 (giá trị sử dụng đất 120.240.000 đồng, giá trị xây dựng 5.779.826 đồng = 126.019.826 đồng).

    + Diện tích toàn bộ bếp còn lại phía trong 1 tầng lợp tôn là: 2,75m x 4,22m = 11,6m2, (giá trị sử dụng đất là 278.400.000 đồng, giá trị xây dựng là 2.990.800 đồng = 281.390.800 đồng).

    + Diện tích ban công tầng 2 là 1,7m x 0,85m = 1,445m2 (giá trị xây dựng là 427.500 đồng).

     

    Tổng diện tích nguyên đơn được sở hữu là 38,97m2 (có giá trị sử dụng đất là 935.260.000 đồng, có giá trị xây dựng là 25.837.765 đồng = 961.153.765 đồng (phần sửa chữa làm thêm của gia đình bà Đức là 22.644.829 đồng, chưa kể phần mái tôn mới sửa, còn lại phần xây dựng nguyên thuỷ là 3.228.936 đồng gồm tường 2.825.733 đồng, móng 403.203 đồng).

     

     

     

    b) Phần diện tích bị đơn được sở hữu và sử dụng phía tay phải giáp nhà 81 Đội Cấn từ phố nhìn vào gồm các diện tích sau:

    Diện tích 1 mặt phố (2 tầng) là: ´ 10,4m = 15,652m(giá trị sử dụng đất 375.648.000 đồng, giá trị sử dụng xây dựng 15.335.798 đồng= 390.983.798 đồng).

     

    + Diện tích sân: 1,4 x 4m = 5,6m2 (giá trị sử dụng đất là 134.400.000 đồng, giá trị xây dựng 364. 000 đồng = 134.764.000 đồng).

    + Diện tích 2 (2 tầng) là: 1,4m x 3,48m = 4,872m2 (giá trị sử dụng đất 116.928.000 đồng, giá trị xây dựng 5.618.314 đồng = 122.546.314 đồng).

     

    + Khu phụ, WC, cầu thang do bị đơn tự làm được sở hữu là 6.074.128 đồng (bao gồm cả thiết bị khu phụ).

    + Diện tích ban công tầng 2 = 427.500 đồng. Bà Đức được sở hữu tổng diện tích là 26,036m2, giá trị sử dụng đất 626.976.000 đồng, giá trị xây dựng 36.589.232 đồng = 663.565.232 đồng. Trong đó giá trị xây dựng nguyên thuỷ 1.792.130 đồng (gồm có tường 10 là 1.412.867 đồng, móng cũ 379.263 đồng) phần còn lại xây dựng mới của bà Đức là 34.797.263 đồng (chưa kể phần mái tôn mới sửa năm 2001).

    c) Nguyên đơn tự làm cầu thang lên tầng 2 trong phần diện tích nhà, đất được sở hữu và sử dụng.

    d) Bị đơn được tự mở lối đi ra sân và cầu thang tại tầng 1 trong phần diện tích được sở hữu và sử dụng.

    e) Bức tường xây ngăn của mỗi bên nằm trên phần diện tích đất được chia sử dụng.

    10. Chấp nhận yêu cầu đòi nhà của nguyên đơn: Buộc gia đình bà Đức gồm những người có tên trong hộ khẩu và ăn ở thường xuyên tại 83 Đội Cấn, Ba Đình, Hà Nội, phải trả lại toàn bộ diện tích thuộc sở hữu của 4 đồng nguyên đơn (bà Sắc, bà Hợi, ông Kiên và các thừa kế của bà Chính do anh Vượng đại diện) và dọn về phần diện tích 2/5 nhà 83 Đội Cấn mà gia đình bà Đức được sở hữu và sử dụng.

    11. Bác các yêu cầu khác của các đương sự.

    Sau khi xét xử phúc thẩm bà Đức có đơn khiếu nại.

    Tại Quyết định số 173/KNDS ngày 11-11-2002, Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã kháng nghị Bản án phúc thẩm nêu trên; đề nghị Toà Dân sự Tòa án nhân dân tối cao xử bác yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn do không đủ căn cứ pháp lý.

    Tại Quyết định giám đốc thẩm số49/GĐT-DS ngày 24-03-2003, Toà Dân sự Toà án nhân dân tối cao đã quyết định:

    Sửa Bản án phúc thẩm số 87/PTDS ngày 23-05-2002 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội như sau:

    - Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn xin huỷ hợp đồng mua bán nhà và đòi nhà cho thuê đối với gia đình bà Nguyễn Thị Đức.

    - Xác định nhà đất số 83 Đội Cấn, Ba Đình, Hà Nội có diện tích 65,09m2 thuộc quyền sở hữu của cụ Trần Thị Kiềm.

    - Công nhận hợp đồng mua bán nhà số 83 Đội Cấn lập ngày 04-01-1969 giữa cụ Trần Thị Kiềm và vợ chồng ông Đỗ Văn Chúc, bà Nguyễn Thị Đức có hiệu lực.

    - Bà Nguyễn Thị Đức hoàn tất thủ tục theo quy định để được công nhận quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất.

    Ngoài ra, Quyết định giám đốc thẩm còn quyết định về án phí.

    Sau khi xét xử giám đốc thẩm, ông Kiên, bà Sắc, bà Hợi và anh Vượng có đơn khiếu nại Quyết định giám đốc thẩm nêu trên.

    Tại Quyết định kháng nghị số105/KN-VKSTC-V5 ngày 06-10-2003 đối với Quyết định giám đốc thẩm nêu trên, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm; sửa Quyết định giám đốc thẩm số49/GĐT-DS ngày 24-03-2003 của Toà Dân sự Toà án nhân dân tối cao và xử giữ nguyên bản án phúc thẩm số 87/DSPT ngày 23-05-2002 của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội.

    XÉT THẤY:

    Tại Quyết định giám đốc thẩm số49/GĐT-DS ngày 24-03-2003 đã xác định nhà 83 Đội Cấn là tài sản riêng của cụ Kiềm vì cụ Kiềm mua năm 1944 là chưa đủ căn cứ. Bởi lẽ, căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án như bản tài liệu bằng Tiếng Pháp (đã được dịch ra tiếng Việt có tiêu đề “Chủ sở hữu kế tục”) liên quan đến nhà 83 Đội Cấn- Ba Đình- Hà Nội; Tờ khai đăng ký nhà và đất do ông Dương Văn Kiên đứng tên kê khai ngày 10-08-1959; Công văn3290/ĐC-NĐ-CS ngày 27-08-1999 của Sở Địa chính nhà đất Hà nội thì có cơ sở để xác định nhà đất tại 83 Đội Cấn, Ba Đình, Hà Nội thuộc quyền sở hữu của cụ Trần Thị Kiềm và bốn người con gồm: ông Dương Văn Kiên, bà Dương Thị Sắc, bà Dương Thị Hợi, bà Dương Thị Chính.Tuy nhiên, các tài liệu này (trừ Công văn3290/ĐC-NĐ-CS ngày 27-08-1999 của Sở Địa chính nhà đất Hà Nội) đều là bản photocopy và không có xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc xác nhận của người tiến hành tố tụng. Hơn nữa, trong quá trình giải quyết vụ án Toà án các cấp cũng đã có nhiều công văn gửi Sở Địa chính nhà đất Hà nội đề nghị làm sáng tỏ một số vấn đề liên quan đến nhà, đất tại 83 Đội Cấn, Ba Đình, Hà Nội, nhưng không được cung cấp đầy đủ. Mặt khác, Thẩm phán không trực tiếp xem xét các tài liệu có tại Sở Địa chính nhà đất Hà Nội nên những vấn đề nêu trong công văn của các cấp Toà án chưa được làm sáng tỏ.

    Vì vậy cần điều tra làm rõ tính xác thực của các tài liệu nêu trên, cụ thể phải trực tiếp xem xét và sao chụp toàn bộ các tài liệu mà Sở Địa chính nhà đất Hà Nội đang lưu giữ có liên quan đến nhà, đất tại 83 Đội Cấn, Ba Đình, Hà Nội; cần phải xác minh tại Sở Địa chính nhà đất về những thông tin do Sở Địa chính nhà đất cung cấp còn chưa rõ và mâu thuẫn. Đồng thời xem xét các chứng cứ, tài liệu do các đương sự xuất trình trong quá trình giải quyết vụ án. Từ đó mới có cơ sở xác định chính xác nhà, đất tại 83 Đội Cấn, Ba Đình, Hà Nội thuộc sở hữu riêng của cụ Kiềm hay của cụ Kiềm và các nguyên đơn. Trên cơ sở đó quyết định công nhận hay không công nhận hợp đồng mua bán nhà lập ngày 04-01-1969 giữa cụ Kiềm và vợ chồng bà Nguyễn Thị Đức.

    Bởi các lẽ trên và căn cứ vào khoản 4 Điều 77 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự.

    QUYẾT ĐỊNH:

    Huỷ Quyết định giám đốc thẩm số49/GĐT-DS ngày 24-03-2003 của Toà Dân sự Toà án nhân dân tối cao; Bản án phúc thẩm số 87/PTDS ngày 23-05-2002 của Toà án nhân dân  thành phố Hà Nội; Bản án sơ thẩm số 03/DSST ngày 11-01-2002 của Toà án nhân dân  quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.

    Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân  thành phố Hà Nội điều tra, xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật 
     

    Lý do huỷ Quyết định giám đốc thẩm của Toà Dân sự Toà án nhân dân tối cao và các Bản án sơ thẩm, phúc thẩm:

    Chưa có cơ sở xác định chính xác nhà, đất tại số 83 Đội Cấn thuộc sở hữu riêng của cụ Kiềm hay của cụ Kiềm và các nguyên đơn. Do đó, chưa thể công nhận hợp đồng mua bán nhà giữa cụ Kiềm và vợ chồng bà Nguyễn Thị Đức.

     

     
    3012 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận