Số hiệu
|
33/2003/HĐTP-DS
|
Tiêu đề
|
Quyết định số33/2003/hđtp-ds ngày 05-11-2003 về vụ án tranh chấp hợp đồng xây dựng
|
Ngày ban hành
|
05/11/2003
|
Cấp xét xử
|
Giám đốc thẩm
|
Lĩnh vực
|
Dân sự
|
QUYẾT ĐỊNH SỐ33/2003/HĐTP-DS NGÀY 05-11-2003
VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG XÂY DỰNG
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
.................
Tại phiên toà ngày 05-11-2003 xét xử giám đốc thẩm vụ án tranh chấp hợp đồng xây dựng giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Mạc Thị Vinh Phú; trú tại số 3 Trần Khắc Chân, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.
- Bị đơn: Công ty Xây dựng và trang trí nội thất X59, có trụ sở tại số 9 Đinh Tiên Hoàng, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh, do ông Trần Ngọc Đức đại diện theo uỷ quyền.
NHẬN THẤY:
Ngày 24-08-1995 bà Mạc Thị Vinh Phú và Công ty Xây dựng và trang trí nội thất X 59 thuộc Bộ Quốc Phòng (gọi tắt là Công ty X59) ký kết hợp đồng xây dựng số 64 với nội dung:
- Bà Mạc Thị Vinh Phú (là bên A) khoán gọn cho Công ty X59 (là bên B) thi công xây dựng căn nhà gồm phòng làm việc và phòng ở, toạ lạc tại số 3 Trần Khắc Chân, quận 1 theo đúng thiết kế do bên B lập được bên A duyệt.
- Thời gian thực hiện: Khởi công ngày 29-08-1995 hoàn thành ngày 30-04-1996.
- Giá trị hợp đồng: Đơn giá xây dựng là 1.600.000 đồng/m2, diện tích xây dựng là 1.285,75m2, giá trị hợp đồng là 2.057.136.000 đồng.
- Phương thức thanh toán: Thanh toán tiền đồng Việt Nam theo tiến độ thi công được quy định trong hợp đồng.
- Nếu bên A thay đổi thiết kế đã duyệt phải báo trước cho bên B ít nhất 10 ngày. Phần khối lượng phát sinh tăng (giảm) do thay đổi thiết kế sẽ được cộng thêm (trừ bớt) vào giá trị quyết toán công trình. Diện tích xây dựng nếu có phát sinh tăng hoặc giảm theo thiết kế sẽ được quyết toán theo thực tế.
Sau khi ký kết hợp đồng, bên B đã tiến hành thi công và bên A đã ứng nhiều đợt cho bên B số tiền tổng cộng là 924.589.000 đồng.
Ngày 12-07-1996 bà Phú có văn bản cho rằng Công ty X59 thi công không đảm bảo chất lượng, nên yêu cầu Công ty X59 đình chỉ thi công và tiến hành thanh lý hợp đồng, giữ nguyên hiện trạng công trình để cơ quan chức năng thẩm định chất lượng, khối lượng công trình. Ngày 14-08-1996 Công ty X59 có văn bản đồng ý với đề nghị của bà Phú về việc thanh lý hợp đồng đã ký và mời Công ty Kiểm định xây dựng giám định giá trị công trình thực tế đã thi công. Do hai bên không thống nhất được giá trị công trình mà Công ty X59 đã thi công, nên xẩy ra tranh chấp.
Theo kết quả kiểm định số 165/KĐ/TB- KĐ ngày 05-11-1996 của Công ty Kiểm định xây dựng Sài Gòn thuộc Sở Xây dựng thành phố Hồ Chí Minh thì giá trị khối lượng công trình đã thi công là 1.120.000.000 đồng, khấu trừ phần công trình không đạt chất lượng là 136.149.000 đồng, còn lại 983.851.000 đồng.
Theo kết quả kiểm định số 43/TVKĐ ngày 26-02-1997 của Chi nhánh Công ty Tư vấn công nghệ thiết bị và Kiểm định xây dựng thì giá trị công trình đã thi công là: 1.272.207.096 đồng.
Theo kết quả kiểm định số 58/TT ngày 01-08-1998 của Trung tâm Khoa học công nghệ và kỹ thuật xây dựng thuộc Công ty Tư vấn xây dựng tổng hợp Bộ Xây dựng thì giá trị công trình đã thi công là 1.577.180.000 đồng.
Bà Mạc Thị Vinh Phú cho rằng Công ty X59 thi công không đảm bảo chất lượng, khối lượng và thời gian. Việc sửa đổi thiết kế là do lỗi của Công ty X59 vì bà Phú đã giao toàn bộ thiết kế cho Công ty X59 thì Công ty X59 phải chịu trách nhiệm về pháp lý đối với thiết kế. Bà Phú yêu cầu căn cứ vào kết quả kiểm định công trình của Công ty Kiểm định xây dựng Sài Gòn đã xác định giá trị công trình mà Công ty X59 đã thi công là 1.120.000.000 đồng, sau khi đối trừ các khoản gồm:
- Tiền bà Phú đã ứng trước cho Công ty X59 là 924.020.000 đồng.
- Yêu cầu Công ty X59 bồi thường 760.469.000 đồng gồm các khoản:
+ Thiệt hại do công trình kém chất lượng là 136.000.000 đồng.
+ Phạt vi phạm do trễ hạn hợp đồng là: 74.400.000 đồng.
+ Phạt do công trình kém chất lượng là: 16.320.000 đồng.
+ Lãi suất phát sinh từ ngày 19-07-1996 đến khi xét xử là: 533.749.000 đồng.
Tổng cộng là: 1.684.489.000 đồng.
Như vậy, Công ty X59 còn phải bồi thường cho bà Phú 564.489.000 đồng.
Theo lời khai của ông Trần Ngọc Đức, đại diện cho Công ty X59 thì Công ty X59 không vi phạm hợp đồng, việc kéo dài thời gian thi công là do bà Phú không thực hiện nghĩa vụ ký hợp đồng thiết kế, thay đổi thiết kế liên tục làm tăng khối lượng công trình, không thanh toán tiền thi công theo đúng tiến độ. Công ty X59 yêu cầu bà Phú Thanh toán các khoản gồm:
- Tiền thi công còn thiếu là: 657.000.000 đồng.
- Tiền thay đổi kích thước trục móng sau khi đã thi công xong là 20.000.000 đồng.
- Tiền công đập phá sửa chữa và làm mới cho các hộ dân có tranh chấp là: 10.000.000 đồng.
- Thanh toán vật liệu giá cao là: 15.000.000đồng.
- Tiền lãng phí nhân công là: 20.000.000 đồng.
- Tiền tháo dỡ dàn giáo, thi công sơn nước tường bao là 25.000.000 đồng.
- Chi phí bảo vệ công trường là: 28.728.000 đồng.
- Chi phí cán bộ theo dõi công trường là: 13.500.000 đồng.
- Chi phí thẩm định là: 60.000.000 đồng.
- Chi phí kiểm định của Bộ xây dựng là: 10.000.000 đồng.
- Chi phí giải quyết tranh chấp là: 20.000.000 đồng.
- Phạt vi phạm hợp đồng là 100.000.000 đồng.
- Lãi suất phát sinh là: 535.392.909 đồng.
Tổng cộng là: 1.514.620.909 đồng.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 76/DSST ngày 30-09-1998, Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
1- Chấp nhận một phần yêu cầu của bà Mạc Thị Vinh Phú về việc xử lý lại toàn bộ bề mặt cột bê tông cốt thép lầu 4 và sàn lầu 5 bằng cách dùng phụ gia để trám đầy các mặt rỗ của bề mặt bê tông, tuân thủ nghiêm các thao tác và chỉ định kỹ thuật của từng loại phụ gia. Do quan hệ của hai bên không thể tiếp tục hợp tác trong xây dựng, nên bà Phú được quyền thuê một cơ quan có chức năng xây dựng khác để thực hiện việc xử lý lại như trên và Công ty X59 phải hoàn trả số tiền mà bà Phú phải thanh toán cho Công ty xây dựng này theo chứng từ hoá đơn hợp lệ. Đồng thời, Công ty X59 phải trả phạt vi phạm về chất lượng cho bà Phú là 10% trên số tiền phải trả cho việc xử lý.
Bác yêu cầu của bà Phú đòi Công ty X59 bồi thường số tiền là 760.469.000 đồng.
2- Chấp nhận một phần yêu cầu của Công ty X59 là buộc bà Phú phải thanh toán cho Công ty X59 số tiền thi công chưa trả đủ là 653.160.000 đồng. Bác các yêu cầu còn lại của Công ty X59 đòi bà Phú bồi thường số tiền 861.600.909 đồng.
3- Công ty X59 phải chịu chi phí thẩm định khối lượng do Trung tâm Khoa học công nghệ kỹ thuật xây dựng thẩm định là 60.000.000 đồng.
4- Các bên đương sự có trách nhiệm giữ nguyên hiện trạng công trình số 3 Trần Khắc Chân để đảm bảo thi hành án.
5- Án phí dân sự sơ thẩm:
- Bà Mạc Thị Vinh Phú phải nộp là 23.209.380 đồng, bà Phú đã nộp tạm ứng 5.000.000 đồng theo biên lai số 000359 ngày 25-03-1997, nay phải nộp thêm 18.209.380 đồng.
- Công ty X59 phải nộp 25.232.018 đồng, đã nộp tạm ứng theo biên lai số 002669 ngày 21-09-1998, nay Công ty X59 phải nộp thêm 10.974.518 đồng.
Ngày 10-10-1998, Công ty X59 có đơn kháng cáo đề nghị chấp nhận các yêu cầu phản tố của Công ty X59 và yêu cầu được tính lãi khoản tiền bà Phú còn nợ đến ngày xét xử sơ thẩm theo mức lãi xuất quá hạn của Ngân hàng Nhà nước quy định.
Ngày 14-10-1998 bà Mạc Thị Vinh Phú có đơn kháng cáo đề nghị chấp nhận các yêu cầu đòi bồi thường của bà Phú đối với Công ty X59.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 09/DSPT ngày 21-01-2000, Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định: Sửa một phần Bản án sơ thẩm như sau:
1- Buộc Công ty X59 phải trả bà Mạc Thị Vinh Phú số tiền xử lý bề mặt bê tông cốt thép còn lại của lầu 4 và sàn lầu 5 và tiền phạt 10% là 14.976.000 đồng.
2- Buộc bà Phú phải thanh toán cho Công ty X59 số tiền thi công là 652.591.000 đồng.
3- Tiền chi phí thẩm định cho Trung tâm Khoa học công nghệ và kỹ thuật xây dựng 60.000.000 đồng, mỗi bên chịu 1/2 là 30.000.000 đồng.
4- Huỷ bỏ toàn bộ biện pháp kê biên nhà số 3 Trần Khắc Chân.
5- Các quyết định về án phí dân sự sơ thẩm được giữ nguyên. Mỗi bên nguyên đơn, bị đơn phải nộp 50.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm.
Sau khi xét xử phúc thẩm, bà Mạc Thị Vinh Phú có đơn khiếu nại.
Tại Kháng nghị số06/KN-DS ngày 14-01-2003, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã kháng nghị Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên. Đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm huỷ phần quyết định về giá trị công trình của Bản án dân sự sơ thẩm số 76/DSST ngày 30-09-1998 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và Bản án dân sự phúc thẩm số 09/DSPT ngày21-01-2000 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ vụ án về Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm.
XÉT THẤY:
Kết quả kiểm định số 165KĐ/TB- KĐ ngày 05-11-1996 của Công ty Kiểm định xây dựng Sài Gòn xác định giá trị công trình mà Công ty X59 đã thi công là 1.120.000.000đồng. Tuy nhiên, kết quả kiểm định của Công ty Kiểm định xây dựng Sài Gòn do bà Phú ký kết hợp đồng kiểm định không có sự tham gia của Công ty X59 và chỉ giám định khối lượng công trình mà không giám định chất lượng công trình, nên không đảm bảo căn cứ pháp lý.
Kết quả kiểm định số 43/TVKĐ ngày 26-02-1997 của Chi nhánh Công ty Tư vấn công nghệ thiết bị và kiểm định xây dựng là theo yêu cầu của Công ty X59, không có sự tham gia của bà Phú. Mặt khác, tại biên bản ngày 28-10-1997 ông Nguyễn Văn Tôn, đại diện Chi nhánh Công ty Tư vấn công nghệ thiết bị và kiểm định xây dựng có lời khai và kết quả kiểm định của chi nhánh Công ty Tư vấn công nghệ thiết bị và Kiểm định xây dựng dựa trên số liệu do Công ty X59 cung cấp, nên không chính xác và không đảm bảo khách quan. Vì vậy, không thể căn cứ vào kết quả kiểm định này để thanh toán.
Kết quả kiểm định số 58/TT ngày 01-08-1998 của Trung tâm Khoa học công nghệ và Kỹ thuật xây dựng xác định giá trị của công trình Công ty X59 đã thi công là 1.577.180.000 đồng.
Xét thấy, Trung tâm Khoa học công nghệ và kỹ thuật xây dựng là cơ quan được Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh trưng cầu giám định. Kết quả kiểm định của Trung tâm Khoa học công nghệ và Kỹ thuật xây dựng được xác định trên cơ sở: Hợp đồng xây dựng ký kết ngày 24-08-1995, thể hiện sự thoả thuận tự nguyện của hai bên, thiết kế ban đầu, thực tế thi công và nhật ký công trình kết hợp với đo vẽ thực tế hiện trạng công trình. Nên kết quả kiểm định của Trung tâm Khoa học công nghệ và Kỹ thuật xây dựng đảm bảo tính pháp lý và quyền lợi của các đương sự. Do đó, Toà án cấp phúc thẩm căn cứ vào kết quả kiểm định này làm cơ sở để xác định giá trị công trình mà Công ty X59 đã thi công bằng 1.577.180.000 đồng là có căn cứ. Sau khi khấu trừ 924.589.000 đồng bà Phú đã ứng cho Công ty X59, nên số tiền bà Phú phải thanh toán cho Công ty X59 là: 1.577.180.000 đồng- 924.589.000 đồng = 652.591.000 đồng. Vì vậy, Toà án cấp phúc thẩm đã buộc bà Phú phải thanh toán cho Công ty X59 số tiền thi công là 652.591.000 đồng, đồng thời buộc Công ty X59 phải trả bà Mạc Thị Vinh Phú số tiền xử lý bề mặt bê tông cốt thép của lầu 4 và sàn lầu 5 và tiền phạt 10% bằng 14.976.000 đồng là có căn cứ. Bản Kháng nghị cho rằng kết quả kiểm định số 58/TT ngày 01-08-1998 nêu trên là không chính xác, nhưng cũng không đưa ra được kết luận nào khác của cơ quan có thẩm quyền xác định quan điểm của bản Kháng nghị là đúng.
Tuy vậy, phần yêu cầu của bà Phú không được chấp nhận là 760.469.000 đồng- 14.976.000 đồng = 745.493.000 đồng. Phần yêu cầu của Công ty X59 không được chấp nhận là 1.514.620.909 đồng- 652.591.000 đồng = 862.029.909 đồng, nhưng Toà án cấp phúc thẩm vẫn giữ nguyên án phí dân sự sơ thẩm là không chính xác. Do đó, cần phải tính lại như sau:
- Bà Phú phải nộp: 18.000.000 đồng + (245.493.000 đồng x 2%) = 22.909.860 đồng, bà Phú đã nộp tạm ứng 5.000.000 đồng theo biên lai số 000359 ngày 25-03-1997, nay phải nộp thêm 17.909.860 đồng.
- Công ty X59 phải nộp: 18.000.000 đồng + (362.029.909 đồng x 2%) = 25.240.598 đồng, đã nộp tạm ứng 14.257.500 đồng theo biên lai số 002669 ngày 21-09-1998, nay Công ty X59 phải nộp thêm 10.983.098 đồng.
Mặt khác, Toà án cấp phúc thẩm quyết định sửa một phần Bản án sơ thẩm: Buộc Công ty X59 phải trả bà Mạc Thị Vinh Phú số tiền xử lý bề mặt bê tông cốt thép còn lại của lầu 4 và sàn lầu 5 và tiền phạt 10% là 14.976.000 đồng, nhưng lại vẫn buộc các đương sự phải chịu án phí dân sự phúc thẩm là có thiếu sót. Do đó, cần phải sửa Bản án dân sự phúc thẩm về phần án phí phúc thẩm cho chính xác.
Bởi các lẽ trên và căn cứ vào khoản 3 Điều 77 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự,
QUYẾT ĐỊNH:
Sửa Bản án dân sự phúc thẩm số 09/DSPT ngày 21-01-2000 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đối với vụ án dân sự về tranh chấp hợp đồng xây dựng giữa nguyên đơn là bà Mạc Thị Vinh Phú với bị đơn là Công ty xây dựng và trang trí nội thất X59 như sau:
1- Buộc Công ty X59 phải trả bà Mạc Thị Vinh Phú số tiền xử lý bề mặt bê tông cốt thép còn lại của lầu 4 và sàn lầu 5 và tiền phạt 10% là 14.976.000đồng.
Bác yêu cầu của bà Phú đòi Công ty X59 bồi thường số tiền là 475.493.000 đồng.
2- Buộc bà Phú phải thanh toán cho Công ty X59 số tiền thi công là 652.591.000 đồng.
Bác yêu cầu của Công ty X59 đòi bà Phú bồi thường số tiền 862.029.909 đồng.
3- Tiền chi phí thẩm định cho Trung tâm Khoa học công nghệ và kỹ thuật xây dựng 60.000.000 đồng, mỗi bên chịu 1/2 là 30.000.000 đồng.
4- Huỷ bỏ toàn bộ biện pháp kê biên nhà số 3 Trần Khắc Chân.
5- Án phí dân sự sơ thẩm:
- Bà Mạc Thị Vinh Phú phải nộp 22.909.860 đồng, bà Phú đã nộp tạm ứng 5.000.000 đồng theo biên lai số 000359 ngày 25-03-1997, nay phải nộp thêm 17.909.860 đồng.
- Công ty X59 phải nộp 25.240.598 đồng, đã nộp tạm ứng 14.257.500 đồng theo biên lai số 002669 ngày 21-09-1998, Công ty X59 phải nộp thêm 10.983.098 đồng.
6- Bà Mạc Thị Vinh Phú và Công ty X59 không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Căn cứ bác Kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, lý do sửa Bản án phúc thẩm:
Bản kháng nghị nêu kết quả giám định do Toà án trưng cầu là không chính xác, nhưng không đưa ra được kết luận xác định quan điểm của bản Kháng nghị là đúng.
Bản án phúc thẩm xác định lại giá trị thanh toán giữa hai bên, nhưng vẫn giữ nguyên mức án phí dân sự sơ thẩm là không chính xác.