Quyết định giám đốc thẩm xét xử vụ án hành chính về khiếu kiện quyết định thu hồi đất của Công ty cổ phần Sơn Dũng Bảo

Chủ đề   RSS   
  • #264241 25/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định giám đốc thẩm xét xử vụ án hành chính về khiếu kiện quyết định thu hồi đất của Công ty cổ phần Sơn Dũng Bảo

    Số hiệu

    03/2012/HC-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm xét xử vụ án hành chính về khiếu kiện quyết định thu hồi đất của Công ty cổ phần Sơn Dũng Bảo

    Ngày ban hành

    16/03/2012

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Hành chính

     

    Ngày 16/3/2012 tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án hành chính về khiếu kiện quyết định thu hồi đất, giữa:

     Người khởi kiện: Công ty cổ phần Sơn Dũng Bảo, trụ sở tại số 11/3 đường Nguyễn Thị Minh Khai, phường Bến Nghé, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh .

    Người bị kiện: Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên.

     

    NHẬN THẤY:

    Ngày 13/11/2006, Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên ban hành Quyết định số1785/QĐ-UBND về việc giao đất để thực hiện Dự án khu du lịch sinh thái (Resort) Bãi Môn - Mũi Điện của Công ty cổ phần Sơn Dũng Bảo, địa điểm khu du lịch Bãi Môn - Mũi Điện, xã Hòa Tâm, huyện Đông Hòa, tỉnh Phú Yên với diện tích 8,3377 ha, hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất.

    Ngày 12/4/2007, Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên ban hành Quyết định số686/QĐ-UBND về việc phê duyệt giá đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất một lần của Công ty cổ phần Sơn Dũng Bảo với mức thu tiền sử dụng đất phải nộp tương ứng với mức giao đất trong 70 năm, tổng cộng 2.826.835 .200 đồng.

    Ngày 20/9/2007, Công ty cổ phần Sơn Dũng Bảo được Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 122520 với diện tích 83.377m2 đất tại khu vực Bãi Môn - Mũi Điện, xã Hòa Tâm, huyện Đông Hòa.

    Tháng 5/2004, Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên có Văn bản số 642/UB đề nghị Chính phủ cho phép triển khai thực hiện xây dựng dự án Nhà máy lọc dầu Vũng Rô tại tỉnh Phú Yên.

    Ngày 05/8/2004, Văn phòng Chính phủ có Công văn số4020/VPCP-ĐP thông báo việc Thủ tướng Chính phủ đồng ý chủ trương đầu tư xây dựng Nhà máy lọc dầu Vũng Rô với 100% vốn đầu rư của nước ngoài theo đề nghị của Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên.

     Ngày 08/8/2007, Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên có Tờ trình số35/TTr-UBND trình Thủ tướng Chính phủ về việc xin thẩm tra dự án Nhà máy lọc dầu Vũng Rô, tại xã Hòa Tâm, huyện Đông Hòa, tỉnh Phú Yên.

    Ngày 22/10/2007, Thủ tướng Chính phủ có ý kiến chấp thuận tại Công văn số1586/TTg- DK gửi Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên về dự án đầu tư Nhà máy lọc dầu Vũng Rô tại xã Hòa Tâm, huyện Đông Hòa.

    Ngày 15/11/2007, Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Phú Yên có Báo cáo số1945/BC-SKHĐT-KTĐN về tình hình triển khai xây dựng Nhà máy lọc dầu Vũng Rô ; trong đó Nhà máy có công suất 04 triệu tấn/năm, được xây dựng và sử dụng trên đất có diện tích 200 ha, điện tích mặt nước 210 ha.

     

    Ngày 27/11/2007 , Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên đã có Kế hoạch số52/KH- UBND về việc triển khai dự án đầu tư Nhà máy lọc dầu Vũng Rô. 

     

    Do dự án Nhà máy lọc dầu Vũng Rô là dự án quan trọng trên địa bàn tỉnh Phú Yên với 100% vốn nước ngoài có quy mô lớn, mang tầm quốc gia theo định hướng phát triển kinh tế đến năm 2010 và Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên cho rằng dự án này bao trùm lên diện tích đất của dự án Khu du lịch sinh thái của Công ty cổ phần Sơn Dũng Bảo; nên ngày 07/12/2007, Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên cùng với các ngành chức năng của tỉnh đã làm việc với Công ty cổ phần Sơn Dũng Bảo để thông báo, trao đổi việc dùng triển khai dự án Khu du lịch sinh thái của Công ty.

    Ngày 10/12/2007, Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên có Thông báo số788/TB-UB về việc dừng dự án đầu tư của Công ty cổ phần Sơn Dũng Bảo.

    Ngày 24/12/2007, Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên ban hành Quyết định số2466/QĐ-UB có nội dung thu hồi toàn bộ diện tích đất khu du lịch sinh thái (Resort) Bãi Môn - Mũi Điện và hủy bỏ hiệu lực Quyết định số1785/QĐ-UBND ngày 13/11/2006 của Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên về việc thu hồi đất, giao đất có thu tiền sử dụng đất cho Công ty cổ phần Sơn Dũng Bảo để thực hiện dự án Khu du lịch sinh thái Bãi Môn - Mũi Điện.

    Ngày 10/01/2008, Công ty cổ phần Sơn Dũng Bảo có đơn khiếu nại.

    Ngày 22/4/2008, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại số675/QĐ-UBND với nội dung bác khiếu nại của Công ty cổ phần Sơn Dũng Bảo, yêu cầu Công ty nghiêm túc thực hiện Quyết định thu hồi đất; giao Sở Tài chính tỉnh Phú Yên phối hợp các ngành chức năng làm việc với Công ty cổ phần Sơn Dũng Bảo, tính toán các chi phí liên quan đến việc lập dự án để đền bù cho Công ty và trình Ủy ban nhân dân tỉnh quyết định.

    Ngày 16/6/2008, Công ty cổ phần Sơn Dũng Bảo có đơn khởi kiện vụ án hành chính với nội dung yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên hủy bỏ Quyết định số2466/QĐ-UB ngày 24/12/2007 của Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên để Công ty tiếp tục triển khai dự án khu du lịch sinh thái Bãi Môn - Mũi Điện.

    Ngày 20/6/2008, òa án nhân dân tỉnh Phú Yên đã thụ lý vụ án để giải quyết.

    Tại Bản án hành chính sơ thẩm số03/2008/HC-ST ngày 18/9/2008, Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên đã quyết định: Bác yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần Sơn Dũng Bảo do ông Trần Hùng Bảo - Chủ tịch Hội đồng quản trị của Công ty làm đại diện, vì không có căn cứ. Giữ nguyên Quyết định số2466/QĐ-UBND ngày 24/12/2007 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Phú Yên về việc thu hồi đất Khu du lịch sinh thái Bãi Môn – Mũi Điện và Quyết định số675/QĐ-UBND ngày 22/4/2008, của Uỷ ban nhân dân tỉnh Phú Yên về việc giải quyết đơn khiếu nại của công Trần Hùng Bảo – Chủ tịch Hội đồng quản trị đại diện Công ty cổ phần Sơn Dũng Bảo .

    Ngày 22/9/2008, Công ty cổ phần Sơn Dũng Bảo kháng cáo.

    Tại Bản án hành chính phúc thẩm số 15/2009/HCPT ngày 20/8/2009, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng đã quyết định: không chấp nhận kháng cáo của người khởi kiện Công ty cổ Phần Sơn Dũng Bảo và giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

     Tuyên xử: Bác yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần Sơn Dũng Bảo do ông Trần Hùng Bảo - Chủ tịch Hội đồng quản trị của Công ty làm đại diện vì không có căn cứ Giữ nguyên Quyết định Số2466/QĐ-UBND ngày 24/12/2007 của UBND tỉnh Phú Yên về việc thu hồi đất Khu du lịch sinh thái Bãi Môn - Mũi Điện của Công ty cổ phần Sơn Dũng Bảo và Quyết định số675/QĐ-UBND ngày 22/4/2008 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Phú Yên về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Trần Hùng Bảo - Chủ tịch Hội đồng quản trị đại diện Công ty cổ phần Sơn Dũng Bảo.

    Ngày 10/9/2009, Công ty cổ phần Sơn Dũng Bảo có đơn gửi Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị được xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án hành chính phúc thẩm số15/2009/HC-PT ngày 20/8/2009 của Toà phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng.

    Ngày 02/3/2010, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã ra Quyết định kháng nghị số04/VKSTC-V12 với nội dung: kháng nghị Bản án hành chính phúc thẩm số15/2009/HC-PT ngày 20/8/2009 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Đà Nẵng. Đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng hủy bản án hành chính sơ thẩn số03/2008/HC-ST ngày 18/9/2008 của TAND tỉnh Phú Yên và Bản án hành chính phúc thẩm số15/2009/HC-PT ngày 20/8/2009 của Tòa phúc thẩn Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Đà Nẵng giao hồ sơ để Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại từ trình tự sơ thẩm bảo đảm đúng quy định của pháp luật.

    Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

     

    XÉT THẤY:

    Sau khi nghiên cứu toàn bộ hồ sơ vụ án, yêu cầu các cơ quan chức năng cung cấp và thẩm định một sô tài liệu có trong hồ sơ vụ an, thấy rằng:

    1. Đối với Quyết định thu hồi đất Số2466/QĐ-UB ngày 24/12/2007 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên.

    a) Về trình tự, thủ tục ban hành quyết định thu hồi đất:

    Tại Quyết định kháng nghị số04/VKSTC-V12 ngày 02/3/2010, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao cho rằng việc Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên ban hành Quyết định thu hồi đất số2466/QĐ-UB ngày 24/12/2007 là chưa phù họp về trình tự, thủ tục ban hành quyết định theo quy định tại Điều 39, 40 Luật Đất đai năm 2003 là có căn cứ. Do vậy, về nội dung này Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên cần rút kinh nghiệm.

    b) Về thẩm quyền thu hồi đất.

    Tại điểm b khoản 1 Điều 124 Luật cổ chức Hội đông nhân dân và Ủy ban nhân dân quy định thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân nhân như sau: “Quyết định các vấn đề thuộc nhiệm vụ quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp mình, trừ các vấn đề quy định tại Điều 124 Luật này ".

    Tại khoản 1 Điều 44 Luật Đất đai năm 2003 quy định thẩm quyền thu hồi đất như sau: “ Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thộc Trung uơng quyết đinh thu hồi đất đối với tổ chức cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài, trừ trường hợp quy đinh tại khoản 2 Điều này”

    Đối chiếu với quy định nêu trên thì việc Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên thay mặt Ủy ban nhân dân ký Quyết định thu hồi đất số246/QĐ-UB ngày 24/12/2007 của Công ty cổ phần Sơn Dũng Bảo là không trái với quy định của pháp luật và việc Phó Chủ tịch ký thay Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên tại Quyết định thu hồi đất nêu trên là phù hợp với sự phân công nhiệm vụ đối với Lãnh đạo Ủy ban nhân dân. Do vậy, tại Quyết định kháng nghị số04/VKSTC-V12 ngày 02/3/2010. Viện trưởng viện Kiểm sát nhân dân tối cao cho rằng việc Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên ký ban hành Quyết định thu hồi đất số2466/QĐ-UB ngày 24/12/2007 không đúng thẩm quyền là không có căn cứ.

    c) Về căn cứ thu hồi đất.

    Tại Quyết định kháng nghị số04/VKSTC-V12 ngày 02/3/2010, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao cho rằng chưa có căn cứ để khẳng định phần đất mà Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên thu hồi của Công ty cổ phần Sơn Dũng Bảo nằm trong khu vực Dự án Nhà may lọc dầu Vũng Rô.

    Đối với nội dung này, Tòa án nhân dân tối cao đã có Văn bản gửi Cục Đo đạc và Bản đồ Việt Nam thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường yêu cầu xác định tính hợp pháp của các bản đồ đo Uỷ ban nhân dân tỉnh Phú Yên dùng làm căn cứ để giao, thu hồi đất của Công ty cổ phần Sơn Dũng Bảo; giao đất cho dự án Nhà máy lọc dầu Vũng Rô và xác định vị trí khu đất của dự án khu du lịch sinh thái của Công ty cô phần Sơn Dũng Bảo; được giao trước ấy có nằm trọn vẹn trong khu đất đã giao cho dự án Nhà máy lọc dầu Vũng Rô hay không.

    Căn cứ vào Công văn số414/ĐĐBĐVN-QL ngày 17/6/2011 của Cục Đo đạc và Bản đồ thể hiện trích lục và đo chỉnh lý hiện trạng khu đất của dự án khu sinh thái của Công ty cổ phần Sơn Dũng Bảo ( bản vẽ số32/2006- BĐTĐ ngày 15/9/2006) là hợp pháp để làm căn cứ xác định vị trí các khu đất đã cấp cho 2 dự án, diện tích đất mà Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên trước đây đã giao Công ty cổ phần Sơn Dũng Bảo nằm gần trọn vẹn trong diện tích đất của dự án Nhà máy lọc dầu Vũng Rô (chỉ còn lại 2,81 ha tính trên bản đồ).

    Do Nhà máy lọc dầu Vũng Rô đang triển khai xây dựng và là dự án trọng điểm của Quốc gia đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, nên phần đất có diện tích 2,81 ha còn lại của Công ty cổ phần Sơn Dũng Bảo nằm trong hành lang bảo vệ an tòan của Nhà máy lọc dầu Vũng Rô. Do vậy, nếu giao phần diện tích đất còn lại 2,18 ha cho Công ty cổ phần Sơn Dũng Bảo để xây dựng khu đu lịch sinh thái cũng không phù hợp; nên việc Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên ban hành Quyết định số2466/QĐ- UBND ngày 24/12/2007 thu hồi toàn bộ diện tích đất Khu du lịch sinh thái Bãi Môn- Mũi Điện đã giao cho Công ty cổ phần Sơn Dũng Bảo trước đây là có căn cứ.

    2. Đối với việc xem xét bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất:

     Tại Quyết định kháng nghị số04/VKSTC-V12 ngày 02/3/2010, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho rằng trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm không xem xét việc bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất của Công ty cổ phần Sơn Dũng Bảo là bỏ sót yêu cầu khởi kiện.

    Đối với nội dung này, thấy rằng trong đơn khởi kiện và cả trong quá trình Tòa án hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm giải quyết vụ án, Công ty cổ phần Sơn Dũng Bảo không có yêu cầu Tòa án xem xét việc bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất, nên Tòa án hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm không xem xét giải quyết là đúng. Tuy nhiên, nếu Công ty cổ phần Sơn Dũng Bảo có yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất thì Công ty cổ phần Sơn Dũng Bảo có quyền khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền để được xem xét giải quyết bằng thủ tục tố tụng khác .

    Như vậy, mặc dù về trình tự, thủ tục ban hành Quyết định thu hồi đất số2466/QĐ-UB ngày 24/12/2007 của Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên còn chưa phù hợp, nhưng nội dung của quyết định là đúng; nên Bản án hành chính phúc thẩm số 15/2009/HCPT ngày 20/8/2009 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng đã quyết định: Không chấp nhận kháng cáo của người khởi kiện Công ty cổ phần Sơn Dũng Bảo và giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số03/2008/HC-ST ngày 18/9/2008 của Tòa an nhân dân tỉnh Phú Yên là đúng pháp luật.

    Do vậy, Quyết định kháng nghị số04/VKSTC-V12 ngày 02/3/2010 của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đối vóc Bản án hành chính phúc thẩm số 15/2009/HCPT ngày 20/8/2009 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao từ Đà Nẵng là không cần thiết.

    Bởi các lẽ trên và căn cứ vào khoản 1 Điều 225 Luật tố tụng hành chính,

     

    QUYẾT ĐỊNH:

    1. Không chấp nhận Quyết định kháng nghị số04/VKSTC-V12 ngày 02/3/2010 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao;

    2. Giữ nguyên Bản án hành chính phúc thẩm số 15/2009/HCPT ngày 20/8/2009 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng.

     

    416/QĐ�\T �� � �y 17/01/2007 truy thu thuế nhập khẩu (từ 3 % lên 30%) và thuế giá trị gia tăng đối với Công ty cổ phần Sơn Hải Phòng là không có căn cứ pháp luật.

     

    Tại quyết định kháng nghị, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho rằng trong quá trình giải quyết vụ án việc xác định mặt hàng “paste màu”nhập khẩu tại 11 Tờ khai hải quan điện tử của Công ty cổ phần Sơn Hải Phòng là sơn thành phẩm (để áp mã số theo biểu thuế 3208.10.69 có thuế suất là 30%) hay là nguyên liệu sản xuất sơn (để áp mã số theo biểu thuế 3212.90.19 là có thuế suất là 3%) còn có sự đánh giá khác nhau giữa các cơ quan chức năng, Tòa án hai cấp cũng chưa diều tra, xác minh yêu cầu Công ty cổ phần Sơn Hải Phòng cung cấp quy trình sản xuất sơn để xác định các lô hàng nhập khẩu “paste màu” có phải là nguyên liệu để sản xuất sơn hay là sơn thành phẩm để làm căn cứ kháng nghị là không chính xác.

    b) Đối với Quyết định số4787/QĐ-HC-KTSTQ ngày 31/7/2007 của Cục trưởng Cục Hải quan thành phế Hải Phòng xử phạt vi phạt hành chính đối với Công ty Cổ phần Sơn Hải Phòng:

    Tại quyết định giải quyết khiếu nại số1278/QĐ-TCHQ ngày 23/7/2007của Tổng Cục trưởng Tổng cục Hải quan, thể hiện nội dung: “…Do việc xác định mã số thuế đối

     với mặt hàng nhập khẩu của Công ty cổ phần Sơn Hải Phòng là phức tạp và khó nên không đủ cơ sở để xác định hành vi vi phạm của Công ty là gian lận thuế nhập khẩu theo quy định của Luật thuế xuât khẩu, thuế nhập khẩu” Mặt khác, do Quyết định truy thu thuế số416/QĐ-Tr.T-KTSTQ ngày 17/01/2007 của Cục trưởng Cục Hải quan thành phố Hải Phòng là không có căn cứ; nên tại Quyết định số4787/QĐ-HC16-KTSTQ ngày 31/7/2007, Cục trưởng Cục Hải quan thành phố Hải Phòng xử phạt Công ty cổ phần Sơn Hải Phòng với hình thức xử phạt chính bàng tiền là 15.000.000 đồng là không đung, vì Cóng ty cổ phần Sơn Hải Phòng không có hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan.

    Từ các căn cứ nêu trên thấy rằng Bản án hành chính phúc thẩm số152/2009/HC-PT ngày 02/11/2009 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội đã quyết định sửa Bản án hành chính sơ thẩm số 01/2009/HCST ngày 22/4/2009 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng; huỷ Quyết định số4787/QĐ-HC16- KTSTQ ngày 31/7/2007 của Cục trưởng Cục Hải quan thành phố Hải Phòng về việc xử phạt 15.000.000 đồng đối với Công ty cổ phần Sơn Hải Phòng, huỷ Quyết định số416/QĐ-Tr.T-KTSTQ ngày 17/01/2007 của Cục Hải quan thành phố Hải Phòng về việc truy thu số tiền 8.129.058.268 đồng tiền thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng đối với Công ty Cổ phần Sơn Hải Phòng là đúng pháp luật.

    Bởi các lẽ trên căn cứ khoản 3 Điều 219, khoản 1 Điều 225 Luật tố tụng hành chính;

     

    QUYẾT ĐỊNH

    1. Không chấp nhận Quyết định kháng nghị số27/QĐ-KNGĐT-V12 ngày 27/10/2010 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao;

    2. Giữ nguyên Bản án hành chính phúc thẩm số152/2009/HC-PT ngày 02/11/2009 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội.

     

     
    3344 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận