Quyết định giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự về tranh chấp quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Văn Khoe

Chủ đề   RSS   
  • #265531 30/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự về tranh chấp quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Văn Khoe

    Số hiệu

    12/2011/DS-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự về tranh chấp quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Văn Khoe

    Ngày ban hành

    22/03/2011

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Dân sự

     


    .....

    Ngày 22-3-2011, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa giám đốc thẩm, xét xử vụ án dân sự về tranh chấp quyền sử dụng đất giữa:

    Nguyên đơn:

    1. Ông Nguyễn Văn Khoe sinh năm 1941; trú tại 2602 King’s Mill Roat, greens borc Non Carolia, Hoa Kỳ.

    2. Bà Cao Thị Kỵ sinh năm 1942; trú tại ấp Bình Hạ Tây, xã Thái Mỹ, huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh.

    (Bà Kỵ ủy quyền cho anh Nguyễn Văn Quan (Lam) sinh năm 1965; trú tại áp Bình Hạ Tây, xã Thái Mỹ, huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh).

    Bị đơn: Cụ Nguyễn Thị Thửa sinh năm 1918; trú tại 44 Ninh Hiệp, xã Bàu Năng, huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh.

    NHẬN THẤY:

    Ngày 09-4-2003 anh Nguyễn Văn Quan (con của ông Nguyễn Văn Khoe và bà Cao Thị Kỵ) khởi kiện cho rằng nguồn gốc diện tích 2.894m2 đất tại ấp Bình Hạ Tây, xã Thái Mỹ, huyện Củ Chi là của cố Nguyễn Văn Chơn và cố Trương Thị Dài để lại cho cụ Nguyên Văn Sê và cụ Nguyễn Thị Kỳ (ông, bà nội của anh Quan) canh tác. Từ năm 1975 đến nay gia đình anh sử dụng đất này. Năm 1992 cụ Nguyễn Thị Thửa và cụ Nguyễn Thị Ngại đăng ký quyền sử dụng đối với diện tích đất nêu trên. Năm 2001 cụ Thửa và cụ Ngại sang nhượng diện tích đất này cho người khác, gia đình anh không đồng ý nên yêu cầu cụ Thửa và cụ Ngại giao lại diện tích đất này cho anh và bà Nguyễn Thị Hẹn (cô của anh Quan) quản lý, sử dụng.

    Bà Nguyễn Thị Hẹn thống nhất với trình bày và yêu cầu của anh Quan.

    Bị đơn là cụ Nguyễn Thị Thửa trình bày: 2.894m2 đất nêu trên có nguồn gốc do cha, mẹ của cụ để lại cho cụ và cụ Nguyễn Thị Ngại (Hưởng) quản lý sử dụng từ trước năm 1975. Sau năm 1975 tuy ở Tây Ninh nhưng hai cụ vẫn quản lý đất này. Hai cụ đã kê khai, đăng ký và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1994, sau đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 2000; do đó, cụ Thửa không đồng ý với yêu cầu của anh Quan và bà Hẹn.

    Cụ Nguyễn Thị Ngại có lời khai và yêu cầu như cụ Thửa.

    Tại bản án dân sự sơ thẩm số 47/DSST ngày 12-8-2003, Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

    - Chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của anh Nguyễn Văn Quan.

    - Đình chỉ việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất giữa anh Quan và cụ Thửa, cụ Ngại.

    - Bác yêu cầu của bà Nguyễn Thị Hẹn về việc đòi cụ Nguyễn Thị Thửa và cụ Nguyễn Thị Ngại giao lại cho bà toàn bộ diện tích đất 2.894m2 tọa lạc tại ấp Bình Hạ Tây, xã Thái Mỹ, huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh.

    - Công nhận quyền sử dụng đất diện tích 2.894m2 thuộc các thửa 123, 124, 125 và 126 tờ bản đồ số 2 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 2262/QSDĐ ngày 03-10-2000 mà UBND huyện Củ Chi đã cấp để cụ Thửa quản lý sử dụng.

    Sau khi xét xử sơ thẩm, bà Hẹn kháng cáo.

    Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Hẹn yêu cầu: Giao 2.894m2 đất nêu trên cho gia tộc của bà mà không yêu cầu giao cho bà và đề nghị hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 2262/QSDĐ ngày 03-10-2000 của Ủy ban nhân dân huyện Củ Chi cấp cho cụ Thửa.

    Tại bản án phúc thẩm số 670/DSPT ngày 14-4-2004, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Hẹn; giữ nguyên bản án sơ thẩm số 47/DSST ngày 12-8-2003 của Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh.

    Tại đơn khởi kiện ngày 20-4-2004 của ông Nguyễn Văn Khoe, bà Cao Thị Kỵ và lời trình bày của anh Nguyễn Văn Quan, anh Võ Thành Dũng đại diện theo ủy quyền của đồng nguyên đơn) thì:

    Nguồn gốc phần đất 2.894m2 tại các thửa số 123, 124, 125 và 126 tờ bản đồ số 2 ấp Bình Hạ Tây, xã Thái Mỹ, huyện Củ Chi do ông, bà, cha, mẹ của ông Khoe để lại. Từ năm 1975 ông Khoe, bà Kỵ đã sử dụng đất này. Năm 1990, ông Khoe xuất cảnh sang Hoa Kỳ, bà Kỵ (vợ của ông Khoe) tiếp tục sử dụng đất này và đóng thuế đến năm 1998 chung với các thửa đất khác (việc đóng thuế đối với phần đất nêu trên không có biên lai riêng). Tuy nhiên cụ Nguyễn Thị Thửa đã kê khai và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1994, đến năm 2000 đổi giấy lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng các nguyên đơn đều không biết, nên yêu cầu cụ Thửa trả lại phần đất trên cho ông Khoe và bà Kỵ.

    Cụ Nguyễn Thị Thửa trình bày:

    Phần đất 2.894m2 nêu trên có nguồn gốc của cha, mẹ cụ để lại cho chị em cụ và cụ Nguyễn Thị Ngại (Hưởng) từ trước năm 1975. Sau năm 1975 dù sống ở Tây Ninh nhưng hai cụ vẫn đi về giữ gìn và quản lý đất này. Hai cụ là người kê khai, đăng ký và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hợp lệ do cụ đại diện đứng tên vào năm 1994, sau đổi giấy đỏ vào năm 2000.

    Do sức khoẻ yếu nên hai cụ định sang nhượng cho người khác thì anh Nguyễn Văn Quan (con ông Nguyễn Văn Khoe và bà Cao Thị Kỵ) cùng bà Nguyễn Thị Hẹn (em ông Khoe) tranh chấp. Vụ án đã được Tòa án nhân dân huyện Củ Chi và Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm; bản án đã có hiệu lực pháp luật.

    Nay ông Khoe và bà Kỵ lại đi kiện và không đúng; đề nghị Tòa án bác yêu cầu của ông Khoe và bà Kỵ.

    Tại bản án dân sự sơ thẩm số2280/2005/DS-ST ngày 06/10/2005, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh nhận định ông Khoe là người xuất cảnh sang Hoa Kỳ năm 1990 nên việc ông Khoe kiện đòi quyền sử dụng phần đất nêu trên là không có căn cứ pháp luật; bà Kỵ không xuất trình được tài liệu chứng cứ chứng minh bà là người đăng ký kê khai phần đất nêu trên. Cụ Thửa là người đăng ký kê khai phần đất này và được UBND huyện Củ Chi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này từ năm 1994, khi cụ Thửa được cấp giấy thì bà Kỵ cũng không khiếu nại; do đó, việc ông Khoe và bà Kỵ yêu cầu cụ Thửa trả lại phần đất nêu trên là không có căn cứ nên quyết định:

    Bác yêu cầu của ông Khoe và bà Kỵ đòi cụ Thửa giao quyền sử dụng phần đất 2.894m2 tại thửa số 123, 124, 125 và 126 tờ bản đồ số 2, ấp Bình Hạ Tây, xã Thái Mỹ, huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh.

    Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và tuyên quyền kháng cáo của các đương sự.

    Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 18-10-2006 anh Quan và anh Dũng có đơn kháng cáo không đồng ý với bản án sơ thẩm.

    Tại bản án phúc thẩm số 146/2006/DSPT ngày 26-4-2006, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh nhận định ông Khoe, bà Kỵ và cụ Thửa đều thừa nhận phần đất tranh chấp diện tích 2.894m2 có nguồn gốc của cha, mẹ cụ Thửa để lại. Ngày 03-10-2000 UBND huyện Củ Chi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng phần đất này cho cụ Thửa, nhưng ông Khoe và bà Kỵ không khiếu nại việc cấp giấy chứng nhận này. Quyết định cấp đất cho cụ Thửa vẫn còn hiệu lực nên kháng cáo của ông Khoe, bà Kỵ yêu cầu được sử dụng phần đất nêu trên là không có cơ sở chấp nhận; từ đó quyết định:

    Không chấp nhận kháng cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm; xử bác yêu cầu của ông Khoe và bà Kỵ đòi cụ Thửa giao quyền sử dụng 2.894m2 đây thuộc thửa số 123, 124, 125, 126 tờ bản đồ số 2, ấp Bình Hạ Tây, xã Thái Mỹ, huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh.

    Sau khi xét xử phúc thẩm, bà Cao Thị Kỵ khiếu nại với nội dung:

    Tòa án các cấp bác đơn khởi kiện của vợ chồng bà là không đúng vì cố Nguyễn Văn Chơn, cố Trương Thị Dài (ông, bà của ông Khoe) có diện tích 30.000m2 đất, đã phân chia phần đất 2.894m2 đất (tại các thửa 123 đến 126) cho cụ Nguyễn Thị Kỳ (bà nội của chồng bà và là chị em ruột với cụ Thửa, cụ Ngại), sau đó cụ Kỳ đã cho vợ chồng bà phần đất này từ trước năm 1975 và vợ chồng bà trực tiếp canh tác nhưng cụ Thửa, cụ Ngại lại kê khai được Ủy ban nhân dân huyện Củ Chi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cụ Thửa, cụ Ngại là không đúng.

    Tại Quyết định số156/2009/KN-DS ngày 20-4-2009, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số 146/2006/DSPT ngày 26-4-2006 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, hủy bản án phúc thẩm nêu trên và bản án dân sự sơ thẩm số2280/2005/DS-ST ngày 06-10-2005 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

    Tại phiên tòa giám thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

    XÉT THẤY:

    Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao là có căn cứ, bởi lẽ:

    Diện tích 2.894m2 đất (thuộc các thửa 123, 124, 125 và 126 tờ bản đồ số 2 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Số 2262/QSDĐ ngày 03-10-2000 mà UBND huyện Củ Chi đã cấp cho cụ Thửa) hiện đang tranh chấp giữa ông Khoe, bà Kỵ với cụ Thửa đã được giải quyết tại bản án dân sự phúc thẩm số 670/DSPT ngày 14-4-2004 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Tại bản án phúc thẩm trên, Tòa án cấp phúc thẩm đã công nhận cụ Thửa có quyền sử dụng đất này, cho đến nay bản án này không bị kháng nghị nên vẫn có hiệu lực pháp luật. Lẽ ra, khi ông Khoe, bà Kỵ khởi kiện, Tòa án cấp sơ thẩm phải giải thích cho các đương sự biết về bản án dân sự phúc thẩm số 670/DSPT ngày 14-4-2004 của TAND thành phố Hổ Chí Minh để các đương sự hiểu về quyền lợi, nghĩa vụ của họ. Nếu các đương sự không đồng ý với quyết định tại bản án phúc thẩm trên hoặc có tài liệu chứng cứ mới và có yêu cầu thì các đương sự khiếu nại bản án phúc thẩm này. Tòa án phải căn cứ vào điểm c, khoản 1 Điều 168 và Điều 192 Bộ luật TTDS để trả lại đơn khởi kiện cho đương sự mới đúng. Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý giải quyết vụ án là không đúng quy định của pháp luật.

    Tòa án cấp phúc thẩm không phát hiện ra sai lầm nêu trên của Tòa án cấp sơ thẩm mà vẫn giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm cũng là không đúng. Vì vậy cần phải hủy bản án phúc thẩm, hủy bản án sơ thẩm nêu trên; giao hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại, nếu không có tình tiết gì khác thì đình có giải quyết vụ án và trả lại đơn khởi kiện cho đương sự theo đúng quy định của pháp luật.

    Bởi các lẽ trên, căn cứ khoản 3 Điều 297 và Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự,

    QUYẾT ĐỊNH:

    1- Hủy bản án dân sự phúc thẩm số 146/2006/DSPT ngày 26-4~2006 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và bản án dân sự sơ thẩm số2280/2005/DS-ST ngày 06-10-2005 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn là ông Nguyễn Văn Khoe và bà Cao Thị Kỵ với bị đơn là cụ Nguyễn Thị Thửa.

    2- Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Mimh để giải quyết sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

     

     
    5959 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận