Số hiệu
|
20/2010/DS-GĐT
|
Tiêu đề
|
Quyết định giám đốc thẩm xét xử về việc tranh chấp về thừa kế tài sản của cụ Đặng Thị Lòng
|
Ngày ban hành
|
05/05/2010
|
Cấp xét xử
|
Giám đốc thẩm
|
Lĩnh vực
|
Dân sự
|
…
Ngày 05 tháng 5 năm 2010, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự "Tranh chấp về thừa kế tài sản" giữa:
Nguyên đơn
1. Cụ Đặng Thị Lòng sinh năm 1930, trú tại nhà số 158/60 Nguyễn Huệ, phường 1, thị xã Bến Tre, tỉnh Bến Tre.
2. Bà Nguyễn Thị Kim Hà sinh năm 1960; trú tại nhà số 158/32 Nguyễn Huệ, phường 1, thị xã Bến Tre, tỉnh Bến Tre
3. Ông Nguyễn Thanh Liêm sinh năm 1962; trú tại nhà số 158/22 Nguyễn Huệ, phường 1, thị xã Bến Tre, tỉnh Bến Tre.
4. Bà Nguyễn Thị Thanh Vân sinh năm 1964 (chết năm 1998, có con là chị Nguyễn Trần Phương Uyên; trú tại nhà số 158/48B Nguyễn Huệ, phường 1, thị xã Bến Tre kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng) .
5. Bà Nguyễn Thị Thanh Hoa sinh năm 1966; trú tại nhà số 158/34 Nguyễn Huệ, phường 1, thị xã Bến Tre, tỉnh Bến Tre.
6. Bà Nguyễn Thị An Hòa sinh năm 1967; trú tại nhà số 158/60 Nguyễn Huệ, phường 1, thị xã Bến Tre, tỉnh Bến Tre.
7. Ông Nguyễn Thanh Bình sinh năm 1968; trú tại nhà sổ 158/32 khóm 3, phường 1, thị xã Bến Tre, tỉnh Bến Tre.
(Cụ Lòng, bà Hà, bà Hoa, bà Hòa, ông Bình và chị Uyên đều ủy quyền cho ông Liêm đại diện theo văn bản ủy quyền vào ngày 9-12-2003 và ngày 20-4-2004).
Bị đơn : Bà Võ Thị Nguyện sinh năm 1954; trú tại nhà số 158/22A Nguyên Huệ, phường 1, thị xã Bến Tre, tỉnh Bến Tre; ủy quyền cho bà Võ Thị Phượng đại diện (văn bản ủy quyền ngày 26-9-2005).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
1. Ông Lê Văn Được sinh năm 1948.
2. Anh Lê Hoàng Minh sinh năm 1972.
3. Chị Lê Thị Xuân Lan sinh năm 1984.
Đều định cư tại Mỹ (địa chỉ: 999 Jean Avenue, Akron, Ohio 44310-1757 USA).
4. Chị Lê Thị Thanh Nguyệt sinh năm 1973; định cư tại Mỹ (địa chỉ: 7482 Bentler Ave NE, Canton, Ohio 44721, USA);
(Ông Được, anh Minh, chị Lan và chị Nguyệt ủy quyền cho bà Võ Thị Nguyện đại diện theo văn bản uy quyền ngày 4-5-2004).
NHẬN THẤY :
Tại đơn khởi kiện ngày 30-6-1997 và trong quá trình tố tụng, các nguyên đơn (do ông Nguyễn Thanh Liêm đại diện theo ủy quyền) trình bày:
- Vợ chồng cụ Nguyễn Văn Trí, cụ Trương Thị Mảnh do không có con đẻ, nên đã nhận bà Nguyễn Thị Thanh Nga làm con nuôi. Năm 1962, cụ Trí lấy vợ hai là cụ Đặng Thị Lòng và có 06 người con là: bà Nguyễn Thị Kim Hà, bà Nguyễn Thị Thanh Vân (chết năm 1998, có con là chị Nguyễn Trần Phương Uyên kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng), bà Nguyễn Thị Thanh Hoa, bà Nguyễn Thị An Hòa, ông Nguyễn Thanh Bình và ông. Cụ Mảnh nuôi ông, bà Vân, bà Hoa và ông Bình từ khi các anh chị của ông còn nhỏ.
Cụ Trí đã mua căn nhà 158/32 và đến cuối năm 1969 đầu năm 1970, cụ Trí cất thêm căn nhà 158/22 đều tọa lạc tại khóm 3, phường 1, thị xã Bến Tre, rồi để cho cố Nguyễn Văn Cẩn và cố Nguyễn Thị Nhỏ (là cha mẹ cụ Trí) và ông ở căn nhà 158/22. Năm 1973 cố Nhỏ chết; năm 1975 vợ chồng bà Nga chuyển về đây ở. Năm 1989 cố Cẩn chết.
- Năm 1981, cụ Trí và cụ Mảnh mua khoảng 3.000m2 đất tại 128/32 đường Nguyễn Huệ. Năm 1991, vợ chồng bà Nga xuất cảnh; còn ông Liêm ở nhà 158/22. Ngày 15-6-1995 cụ Trí chết, không để lại di chúc. San đó, cụ Mảnh bán cho bà Hoa (con cụ Lòng, cụ Trí) căn nhà 158/32, giá 6 lượng vàng để chi dùng riêng, rồi chuyển về ở tại nhà 158/22 (trong nhà này có một số vật dụng); cụ Mảnh cho cháu là bà Võ Thị Nguyện đến nhà này ở cùng với cụ; ông Liêm chuyển đi ở nơi khác. Cụ Mảnh không biết chữ. Năm 1997 cụ Mảnh chết. Từ đó, bà Nguyện chiếm giữ luôn căn nhà 158/22.
Sinh thời cụ Mảnh nuôi 4 người con của cụ Trí và cụ Lòng là bà Vân, bà Hoa, ông Bình và ông; cụ Mảnh đã xây dựng gia đình cho ông và anh chị của ông, cụ còn lập di chúc chia nhà đất cho bà Vân, bà Hoa, ông Bình và ông.
Vì vậy ông và các nguyên đơn yêu cầu được hưởng thừa kế căn nhà 158/22.
Bị đơn là bà Võ Thị Nguyện trình bày: Căn nhà 158/22 (nay là 158/22A) do cụ Trương Thị Mảnh xây dựng và cho bà Nguyễn Thị Thanh Nga. Năm 1990, bà Nga đi nước ngoài định cư và có làm giấy tờ giao lại nhà này cho cụ Mảnh. Ngày 9-02-1996, cụ Mảnh lập di chúc cho bà được thừa kế căn nhà 158/22A (hủy bỏ tờ di chúc lập ngày 20-9-1995). Ngày 22-8-1996 cụ Mảnh có đơn xin từ con nuôi đối với ông Liêm vì ông Liêm không làm tròn nghĩa vụ làm con.
Về số nhà 158/22 và 158/22A: Trước đây ông Liêm có hộ khẩu tại nhà 158/22. Khi bà Nga (từ Mỹ) gửi tiền về cho cụ Mảnh, nhưng cụ Mảnh không nhận được tiền; nên năm 1996 cụ Mảnh xin Công an Phường 1, thị xã Bến Tre điều chỉnh cho cụ số nhà mới. Ngày 22-7-1998 bà cũng làm đơn yêu cầu công an cấp cho số nhà mới. Ngày 8-8-1998 công an phường 1, thị xã Bến Tre điều chỉnh cho bà số nhà mới (158/22A). Từ đó, một căn nhà mang hai số (158/22 và 158/22A). San khi cụ Mảnh chết, bà sử dụng căn nhà này, nên không đồng ý với yêu cầu của nguyên đơn.
Cụ Mảnh có nuôi 4 người con chung của cụ Trí và cụ Lòng là: ông Bình, ông Liêm, bà Hoa và bà Vân. Cụ Mảnh đã cho 2,5 công đất cho ông Bình, ông Liêm, bà Hoa và bà Vân, mỗi người được cho một phần (riêng ông Bình và ông Liêm còn được chia nhà trên phần đất được cho). Năm 1995, cụ Trí chết. Bà Hoa (con cụ Trí, cụ Lòng) làm chủ căn nhà 158/32.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Lê Văn Được, anh Lê Hoàng Minh, chị Lê Thị Thanh Nguyệt và chị Lê Thị Xuân Lan có đơn ngày 4-5-2004 xin chia di sản của cụ Trí với nội dung như sau:
Cụ Nguyễn Văn Tự và cụ Trương Thị Mảnh tạo lập được 2,5 công đất tại khóm 3, phường 1, thị xã Bến Tre, căn nhà số 158/32 và căn nhà số 128/32A đường Nguyễn Huệ. Còn cụ Nguyễn Văn Trí và cụ Đặng Thị Lòng tạo lập được hai căn nhà (một căn để ở và một căn để vựa cau) mang số 158/60 đường Nguyễn Huệ.
Bà Nguyễn Thị Thanh Nga là con cụ Nguyễn Văn Trí và cụ Trương Thị Mảnh. Bà Nga chết ngày 17-12-2001. ông và các anh chị (là người thừa kế của bà Nga) yêu cầu Toà án chia di sản thừa kế của cụ Nguyễn Văn Trí theo pháp luật.
Riêng căn nhà 158/22 (nay là 158/22A) đường Nguyễn Huệ do cụ Mảnh xây cất năm 1971 cho bà Nga ở và làm chủ. Khi xuất cảnh sang Mỹ, vợ chồng bà Nga đã làm thủ tục chuyển giao nhà này cho cụ Mảnh. Trước khi chết, cụ Mảnh có do chúc cho bà Nguyện nhà đất này, nên nhà 158/22 không phải là di sản của cụ Trí.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số07/2005/DS-ST ngày 22-12-2005, Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre quyết định:
Áp dụng Điều 34 Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 637, 677, 678, 679, 680, 681 và 682 Bộ luật dân sự.
- Chấp nhận đơn khởi kiện của ông Nguyễn Thanh Liêm và các đồng nguyên đơn
- Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của các đồng thừa kế của bà Nguyễn Thị Thanh Nga.
- Bác yêu cầu đòi chia thừa kê theo di chúc của bà Võ Thị Nguyện. Cụ thể tuyên:
Bà Võ Thị Nguyện có trách nhiệm giao căn nhà số 581/22A và phần đất thổ cư gắn liền với căn nhà có diện tích 197,5m2 cùng số tài sản bên trong gồm: 01 bàn tròn bằng gỗ, 01 tủ thờ, 01 tủ ly; 01 bộ bàn ghê salon bằng gỗ, 01 bộ ván hộp (salon xếp); 01 bộ ván gõ 2 tấm; 02 tủ quần áo.
Ông Liêm có trách nhiệm nhận quản lý toàn bộ tài sản nêu trên là tài sản chung của 7 nguyên đơn và có trách nhiệm giao cho bà Nguyện nhận thay cho các đồng thừa kế của bà Nguyễn Thị Thanh Nga giá trị nhà, đất và tài sản với số tiền là 264.730.066 đồng và hoàn trả tiền sửa chữa nhà cho bà Nguyện là 6.532.600đ.
Việc giao nhà, tài sản và hoàn trả tiền sẽ được thực hiện song song.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí.
Ngày 26-12-2005, ông Nguyễn Thanh Liêm kháng cáo và yêu cầu xác định căn nhà 158/22 là tài sản chung của cụ Trí, cụ Mảnh và cụ Lòng; không đồng ý chia thừa kế đất vườn cho những người thừa kế của bà Nguyễn Thị Thanh Nga đang định cư ở nước ngoài.
Ngày 3-01-2006, bà Võ Thị Nguyện kháng cáo và yêu cầu xem xét lại các bản di chúc của cụ Mảnh, trong đó có di chúc ngày 9-2-1996 để lại căn nhà 158/22A cho bà; mặt khác giá đất thực tế tại địa phương khoảng 3.000.000 đồng/m2, nhưng Tòa án chỉ xác định 800.000 đồng/m2 là sai; yêu cầu xem xét lại án phí.
Ngày 19-01-1996, của bà Nguyện và bà Võ Thị Phượng (đại diện theo ủy quyền của bà Nguyện) kháng cáo bổ sung với nội dung:
1) Ngày 20- 9-1995, cụ Mảnh tập di chúc cho bà Nga căn nhà 158/22. Ngày 9-2-1996 cụ Mảnh lập di chúc để lại cho bà Nguyện căn nhà 158/22A. Ngày 29-11-2000 bà Nga có văn bản đồng ý cho bà Nguyện hưởng căn nhà 158/22 (đổi là 158/22A). Như vậy, nếu di chúc năm 1996 hợp pháp thì di chúc năm 1995 bị hủy bỏ; còn di chúc năm 1996 không hợp pháp thì di chúc năm 1995 có hiệu lực (bà Nguyện đều được làm chủ căn nhà 158/22). Tòa án không chấp nhận di chúc năm 1996, nhưng không xem xét di chúc năm 1995 là không đúng.
2) Yêu cầu xem xét lại tính hợp pháp của di chúc đề tên cụ Trương Thị Mảnh ngày 26-9-1996 về việc chia nhà, đất vườn cho bà Vân, bà Hoa, ông Bình và ông Liêm.
3) Cụ Lòng không phải là vợ hợp pháp của cụ Trí, nhưng Tòa án vẫn cho cụ Lòng được hưởng phần thừa kế của cụ Trí là không đúng. ông Liêm tuy được cụ Mảnh nuôi từ nhỏ, nhưng cụ Mảnh đã có đơn từ con; yêu cầu Tòa án xem xét ông Liêm có được hưởng thừa kế của cụ Mảnh hay không?
4) Căn nhà 158/60 là tài sản chung của cụ Trí và cụ Lòng, nên 1/2 giá trị căn nhà là di sản của cụ Trí, căn nhà 158/22 là của bà Nguyện, nhưng Toà án cấp sơ thẩm lại xác định nhà này của cụ Mảnh và cụ Trí là sai.
Tại bản án dân sự phúc thẩm số 206/2006/DSPT ngày 8-6-2006, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định:
Không chấp nhận đơn kháng cáo của ông Nguyễn Thanh Liêm và bà Võ Thị Nguyện. Giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.
Sau đó bà Võ Thị Nguyện, ông Lê Văn Được, anh Lê Hoàng Minh, chị Lê Thị Thanh Nguyệt và chị Lê Thị Xuân Lan có đơn khiếu nại bản án phúc thẩm nêu trên.
Tại Quyết định số250/2009/DS-KN ngày 5-6-2009. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số 206/2006/DSPT ngày 8-6-2006 của Toà phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy bản phúc thẩm nêu trên và huỷ bản án dân sự sơ thẩm số07/2005/DS-ST ngày 22-12-2005 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.
Tại phiên toà giám đốc thẩm, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao.
XÉT THẤY:
Ngày 4-5-2004, ông Lê Văn Được, anh Lê Hoàng Minh, chị Lê Thanh nguyệt, chị Lê Thị Xuân Lan (là những người thừa kế của bà Nguyễn Thị Thanh Nga) hiện đang định cư tại Hoa Kỳ ủy quyền cho bà Võ Thị Nguyện đại diện, nhưng giấy ủy quyền này chưa được hợp pháp hóa lãnh sự. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận giấy ủy quyền này là vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 26 Pháp lệnh lãnh sự năm 1990 và khoản 2 Điều 418 Bộ luật tố tụng dân sự.
Về tính hợp pháp của các đi chúc do đương sự xuất trình: quá trình tố tụng, bà Võ Thị Nguyện xuất trình bản di chúc đứng tên cụ Trương Thị Mảnh đề ngày 20-9-1995 với nội dung cho bà Nguyễn Thị Thanh Nga thừa kế căn nhà số 158/22 đường Nguyễn Huệ, phường 1, thị xã Bến Tre. (di chúc này được viết tay, có điểm chỉ đề tên cụ Mảnh, công chứng chứng nhận là: cụ Trương Thị Mảnh lập di chúc để lại tài sản nêu trên cho con gái là bà Nguyễn Thị Thanh Nga là việc làm tự nguyện và hợp pháp, người lập di chúc đã lăn tay). Bà Nguyện còn xuất trình bản di chúc đứng tên cụ Trương Thị Mảnh đề ngày 9-2-1996 với nội dung để lại cho bà Nguyện căn nhà số 158/22A đường Nguyễn Huệ, phường 1, thị xã Bến Tre (di chúc này được đánh máy, có điểm chỉ đề tên cụ Mảnh, công chứng chứng nhận là: việc lập di chúc để lại tài sản có nội dung nêu trên của cụ Mảnh để lại cho cháu gái là bà Võ Thị Nguyện là tự nguyện, người lập di chúc đã điểm chỉ trước mặt công chứng viên). Ngoài ra, bà Nguyện còn xuất trình "Tờ thuận phân bổ sung theo tờ di chúc đề ngày 9-2-1996" đứng tên cụ Mảnh đề ngày 21-6-1996 với nội dung cho bà Nguyện các vật dụng trong căn nhà số 158/22A (tờ thuận phân này được đánh máy, có điểm chỉ đề tên cụ Mảnh, công chứng chứng nhận là: Tờ thuận phân bổ sung theo di chúc đã ký ngày 9-2-1996).
Hồ sơ vụ án còn có Tờ di chúc đứng tên cụ Trương Thị Mảnh đề ngày 26-9-1996 có nội dưng phân chia 2,5 công đất vườn và 2 căn nhà trên đất này như sau: chia cho bà Vân 750m2 đất; chia cho bà Hoa 750m2 đất; chia cho ông Bình 1 nhà gỗ (kể cả nền nhà) và 600m2 ao; Chia cho ông Liêm 1 nhà (kể cả nền nhà ông Liêm đang sử dụng là 400m2). Tờ di chúc này có điểm chỉ đề tên cụ Mảnh; ngày 08-10-1996 Uỷ ban nhân dân phường 1, thị xã Bến Tre xác nhận rằng: Dấu lăn tay điểm chỉ trên là của cụ Trương Thị Mảnh.
Các bản di chúc nêu trên đều có dấu điểm chỉ đứng tên cụ Mảnh, nhưng không có người làm chứng. ông Liêm xác định cụ Mảnh không biết chữ. Trong khi đó trong hồ sơ vụ án có "Tờ nhượng đứt hoa mầu" đề ngày 2-4-1981 và "Đơn xin xác định chủ quyền nhà ở" đề ngày 6-10-1990 có chữ ký đề tên cụ Mảnh. Như vậy, cụ Mảnh có biết chữ hay không thì chưa được làm rõ; nếu cụ Mảnh không biết chữ thì khi lập di chúc phải có người làm chứng theo quy định tại khoản 3 Điều 655 và khoản 2 Điều 661 Bộ luật dân sự năm 1995. Ai là người viết các bản di chúc nêu trên và di chúc được lập ở đâu cũng chưa được làm rõ. Trong các bản di chúc nêu trên chỉ có di chúc đề ngày 9-2-1996 thì công chứng viên chứng nhận rằng: cụ Mảnh điểm chỉ trước mặt công chứng viên, còn các bản di chúc khác cơ quan công chứng hoặc Uỷ ban nhân dân phường không chứng nhận người lập di chúc điểm chỉ trước người có thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân phường hoặc trước mặt công chứng viên. Mặt khác, bản di chúc lập ngày 26-9-1996, nhưng đến ngày 8-10-1996 Uỷ ban nhân dân phường 1, thị xã Bến Tre mới xác nhận. Do đó, việc công chứng, xác nhận đối với các bản đi chúc nêu trên chưa đảm bảo về mặt pháp lý. Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm không chấp nhận di chúc đề tên cụ Mảnh cho bà Nguyện căn nhà số 158/22A, nhưng lại chấp nhận một phần di chúc đề tên cụ Mảnh ngày 26-9-1996 phân chia 2,5 công đất vườn và 2 căn nhà trên đất đó cho ông Liêm, ông Bình, bà Vân, bà Hoa là chưa đủ căn cứ. Khi giải quyết lại vụ án cần xem xét tính hợp pháp của các di chúc nêu trên; nếu cụ Mảnh không biết chữ thì các di chúc đều không hợp pháp; tài sản của cụ Trí và cụ Mảnh được chia thừa kế theo pháp luật. Cụ Đặng Thị Lòng là vợ hai cụ Nguyễn Văn Trí do đó, khi giải quyết lại vụ án cần xem xét nguồn gốc hình thành các tài sản nêu trên và giải quyết bảo đảm quyền lợi hợp pháp của cụ Đặng Thị Lòng.
- Về số nhà 158/22 và số nhà 158/22A: Tại di chúc đứng tên cụ Trương Thị Mảnh đề ngày 20-9-1995 chỉ định bà Nga thừa kế căn nhà số 158/22 đường Nguyễn Huệ (bằng khoán số 318 "An Hội", lô đất số 3351e). Tại di chúc đứng tên cụ Trương Thị Mảnh đề ngày 9-2-1996 để lại cho bà Nguyện căn nhà số 158/22A, đường Nguyễn Huệ (bằng khoán số 318 "An Hội", lô đất số 335). Bà Nguyện cho rằng căn nhà số 158/22 và căn nhà số 158/22A chỉ là một căn nhà. Tòa án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm chưa yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho biết hai số nhà nêu trên có cùng một căn nhà hay không và được xây dựng trên lô đất nào của "bằng khoán số 318, xã An Hội" (cũ), để làm cơ sở giải quyết vụ án, là có thiếu sót.
- Bà Võ Thị Nguyện xuất trình đơn đứng tên cụ Trương Thị Mảnh đề ngày 22-8-1996 xin từ con nuôi đối với ông Nguyễn Văn Liêm (đơn này được viết tay, có điểm chỉ đề tên cụ Trương Thị Mảnh và xác nhận của Ủy ban nhân dân phường 1, thị xã Bến Tre). Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm chưa làm rõ đơn này có đúng ý chí của của Mảnh hay không và do ai viết; tại sao đơn lập ngày 22-8-1996 mà đến ngày 13-9-1996 Uỷ ban nhân dân phường 1 mới có xác nhận? để giải quyết vụ án là thiếu sót (nếu đơn xin từ con nuôi là không hợp pháp thì ông Liêm vẫn được hưởng một phần thừa kế tài sản của cụ Mảnh theo quy định của pháp luật.
- Mặt khác, ông Lê Văn Được, anh Lê Hoàng Minh, chị Lê Thị Thanh Nguyệt và chị Lê Thị Xuân Lan (đều là những người thừa kế của bà Nga) cho rằng cụ Trí và cụ Mảnh có căn nhà số 158/32 và căn nhà số 128/32; còn cụ Trí và cụ Lòng có căn nhà số 158/60, nên các người thừa kế của bà Nga yêu cầu chia phần tài sản của cụ Trí theo pháp luật. Toà án cấp sơ thẩm không giải quyết về căn nhà số 158/32 (với lý do cụ Mảnh đã bán để lấy tiền trị bệnh nhưng không ai tranh chấp ); không giải quyết về căn nhà số 158/60 (với lý do không còn tài liệu lưu trữ tại cơ quan chức năng nên không có căn cứ xác định có phải là tài sản chung của cụ Trí và cụ Mảnh hay không nên không xem xét trong vụ án này), đồng thời không giải quyết đối với căn nhà số 128/32 trong cùng vụ án này, là thiếu sót và chưa giải quyết triệt để vụ án. Toà án cấp phúc thẩm không phát hiện được thiếu sót này của Toà án cấp sơ thẩm.
- Về giá đất: Hai bên đương sự không thống nhất được giá đất. Trường hợp này lẽ ra phải ra quyết định thành lập hội đồng định giá đất (trường hợp Uỷ ban nhân dân tỉnh Bến Tre có quy định giá đất cụ thể phù hợp với giá thị trường chuyển nhượng đất tại địa phương hoặc các Trung tâm giao dịch bất động sản hoạt động hợp pháp có niêm yết giá giao dịch chuyển nhượng đất tại địa phương thì có thể căn cứ vào giá do Uỷ ban nhân dân tỉnh Bến Tre quy định hoặc giá niêm yết của Trung tâm giao dịch để xác định giá đất, mà không nhất thiết phải thành lập hội đồng định giá đất), nhưng Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm lại căn cứ vào xác nhận của ông Âu Hải Khắc Chung là cán bộ địa chính phường 1, thị xã Bến Tre (ngày 30-11-2005) để xác định giá đất chuyển nhượng thực tế tại phường 1, thị xã Bến Tre làm căn cứ giải quyết vụ án, là không đúng pháp luật.
Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 297 và Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự
QUYẾT ĐỊNH:
1. Huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 206/2006/DSPT ngày 8-6-2006 của Toà phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và hủy bản án dân sự sơ thẩm số07/2005/DS-ST ngày 22-12-2005 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre về vụ án "Tranh chấp về thừa kế tài sản" giữa nguyên đơn là cụ Đặng Thị Lòng, ông Nguyễn Thanh Liêm, bà Nguyễn Thị Kim Hà, bà Nguyễn Thị Thanh Vân (chết năm 1998, có con là chị Nguyễn Trần Phương Uyên kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng), bà Nguyễn Thị Thanh Hoa, bà Nguyễn Thị An Hòa, ông Nguyễn Thanh Bình; bị đơn là bà Võ Thị Nguyện; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Lê Văn Được, anh Lê Hoàng Minh, chị Lê Thị Xuân Lan, chị Lê Thị Thanh Nguyệt.
2. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm tại theo quy định của pháp luật.