Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Tranh chấp quyền sử dụng đất" của bà Nguyễn Thị Ba

Chủ đề   RSS   
  • #265471 30/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3536)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4353 lần


    Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Tranh chấp quyền sử dụng đất" của bà Nguyễn Thị Ba

    Số hiệu

    18/2010/DS-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Tranh chấp quyền sử dụng đất" của bà Nguyễn Thị Ba

    Ngày ban hành

    08/04/2010

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Dân sự

     

    ..........

    Ngày 08 tháng 4 năm 2010, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự “tranh chấp quyền sử dụng đất" giữa:

    Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Ba, sinh năm 1957 trú tại ấp Bình Tạo, xã Trung A, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang.

    Bị đơn:

     1. Ông Nguyễn Văn Thơi, sinh năm 1953;

     2. Bà Nguyễn Thị Bé (vợ của Ông Nguyên Văn Thơi) sinh năm 1952;

    Cùng trú tại: Số 585/3 ấp Phước Thuận, xã Phước Thạnh, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang;

    Người có quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan:

    1. Ông Nguyễn Văn Hảo, sinh năm 1960; trú tại số 1248 - Frances St Vancouver B.C V6A - Tzs Canada.

    2. Chị Nguyễn Thị Thùy Vân, sinh năm 1975, trú tại 876A, Lý Thường Kiệt phường 5, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang.

     

    NHẬN THÂY:

    Theo đơn khởi kiện đề ngày 01-3-2005 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Ba trình bày:

    Ngày 10-7- 1999, bà được ủy ban nhân dân huyện Châu Thành cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 1.404m2 đất vườn gồm 2 thửa: thửa 2468 diện tích 594m2 và thửa 2328 diện tích 810m2.

    Thửa đất có diện tích 810m2 do ông Thơi nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông Bình, bà Phụng từ năm 1995. Sau đó ông Thơi đã chuyển nhượng lại cho bà với giá 15 chỉ vàng 24k.

    Thửa đất có diện tích 594m2 do bà trực tiếp mua của vợ chồng ông Bình, bà Phụng vào năm 1998 với giá 16 chỉ vàng 24k.

    Nay vợ chồng ông Thơi cho rằng có sự hoàn đổi đất giữa bà và ông Thơi nên đã chiếm đoạt 810m2 đất của bà.

    Bị đơn là ông Nguyễn Văn Thơi và bà Nguyễn Thị Bé trình bày:

     Năm 1994, vợ chồng ông bà nhận chuyển nhượng 810m2 đất của vợ chồng ông Bình, bà Phụng. Năm l997, vợ chồng ông bà nhận chuyển nhượng tiếp 110m2 đất Của ông Bình, bà Phụng. Tổng diện tích đất hai lần nhận chuyển nhượng là 920m2.

    Năm 1999. bà Ba nhận chuyển nhượng 484m2 đất của ông Bình, bà Phụng (nằm cạnh phần đất vợ chồng ông bà nhận chuyển nhượng trước đây) .

    Ngày 16-7-1999, bà Ba có ký cam kết về việc đứng tên hộ vợ chồng ông bà trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 920m2 , bản cam kết có xác nhận của ủy ban nhân dân xã Phước Thạnh.

    Sau đó vợ chồng ông bà đã nhờ bà Ba đứng tên hộ đối với 2 phần đất nhận chuyển nhượng của ông Bình, bà Phụng nên và Ba đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với tổng diện tích 1.404m2. Tuy nhiên, ngời trục tiếp canh tác và sử dụng đất là vợ chồng ông bà.

    Nay bà Ba có ý định chiếm đoạt đất của vợ chồng ông bà, nên ông bà yêu cầu bà Ba phải trả lại diện tích đất đã đúng tên hộ và bồi hoàn giá trị cây trồng trên đất tại thửa 2468, diện tích 484m2 .

    Tại bản án dân sự sơ thẩm số 06/2006/DSST ngày 07-4-2006, Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang đã quyết định:

    Bác yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Ba đòi ông Thơi, bà Bé giao 810m2 đất ở thửa 2328.

    Chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Văn Thơi và bà Nguyễn Thị Bé.

    Buộc bà Nguyễn Thị Ba phải lập thủ tục chuyển quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Văn Thơi và bà Nguyễn Thị Bé diện tích 920m2 gồm 810m2 ở thửa 2328 và 110m2 ở thửa 2468 tọa lạc tại ấp Phước Thuận, xã Phước Thạnh, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang.

    Kiến nghị ủy ban nhân dân huyện Châu Thành điều chỉnh giảm 920m2 đất đã cấp quyền sử dụng cho bà Nguyễn Thị Ba, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 310103/QSDĐ/PT ngày 10-7-1994 để cấp lại quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Văn Thơi và bà Nguyễn Thị Bé.

    Buộc bà Nguyễn Thị Ba phải dỡ hàng rào giao trả 31,8m2 ở thửa 2468 cho ông Thơi và bà Bé: ngang 1,2m;dài 26,5m phần giáp với lối đi mà ông Thơi và bà Bé đang quản lý, sử dụng.

    Buộc bà Nguyễn Thị Ba phải giao 1.520.000 đồng là giá trị cây trồng trên 484m2 của thửa 2468 cho ông Thơi và bà Bé. Việc giao tiền, giao đất và làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.

    Ngòai ra, Tòa án cấp sơ thấm còn quyết định về án phí và tuyên quyền kháng cáo của các đương sự.

    Ngày 11-4-2006, ông Nguyễn Văn Ngời (đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị Ba) kháng cáo không đồng ý với quyết định của bản án sơ thẩm.

     Tại bản án dân sự phúc thẩm số416/2006/DS-PT ngày 03-10-2006, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

    Không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị Ba do ông Nguyễn Văn Ngời đại diện theo ủy quyền. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 06/2006/DSST ngày 07-04-2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang.

    Buộc bà Nguyễn Thị Ba phải lập thủ tục chuyển quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Văn Thơi và bà Nguyễn Thị Bé diện tích 810m2 ở thửa 2328 tọa lạc tại ấp Phước Thuận, xã Phước Thạnh, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang.

    Buộc bà Nguyễn Thị Ba phải dỡ hàng rào giao trả 31,8m2 ở thửa 2468 cho ông Thơi, bà Bé: ngang 1,2m; dài 26,5m phần giáp với lối đi mà ông Thơi và bà Bé quản lý, sử dụng.

    Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị tiếp tục phát sinh hiệu lực pháp luật.

    Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.

    Sau khi xét xử phúc thẩm, ông Nguyễn Văn Ngời ( đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị Ba) có đơn khiếu nại đề nghị xem xét lại bản án phúc thẩm.

    Tại Quyết định số328/2009/KN-DS ngày 06-7-2009 và Thông báo đính chính số130/TANDTC-DS ngày 02-4-2010, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số 416/2006/DSPT ngày 03-10-2006 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy bản án phúc thẩm nêu trên và bản án sơ thẩm số 06/2006/DSST ngày 07-4-2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm lại, với nhận định:

    Bà Nguyễn Thị Ba cho rằng trong số diện tích đất 1.404m2 mà bà Ba được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 10-7-1999 có phần đất diện tích 484m2 do bà Ba nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông Dương Văn Bình và bà Nguyễn Thị Phụng; còn phần đất có diện tích 920m2 do vợ chồng ông Nguyễn Văn Thơi và và Nguyễn Thị Bé nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông Bình nhưng sau đó đã chuyển nhượng lại cho bà Ba, nguồn tiền nhận chuyển nhượng đất do bà Ba mượn của ông Nguyễn Văn Hảo ( em trai bà Ba, hiện đang cư trú tại Canada). Ngày 09-9-1998, ông Bình đã viết giấy sang nhượng cả 3 phần đất nêu trên cho bà Ba. Trong khi đó, vợ chồng ông Thơi không thừa nhận có việc chuyển nhuwongj 920m2 đất cho bà Ba mà cho rằng chỉ nhờ bà Ba đứng tên hộ trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Mặc dù bà Ba và vợ chồng ông Thơi có lời khai mâu thuẫn về nguồn gốc đất như đã nêu nhưng Tòa án các cấp vẫn không tiến hành lấy lời khai của vợ chồng ông Bình để làm rõ việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông Bình với bà Ba và vợ chồng ông Thơi.

    Quá trình giải quyết vụ án, ông Thơi xuất từ trình bản phô tô “ Giấy cam kết” đề ngày 16-7-1999 có nội dung bà Ba thừa nhận có việc vợ chồng ông Thơi nhờ bà Ba đứng tên hộ trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất 920m2 mà vợ chồng ông Thơi nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông Bình. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm ông Nguyễn Văn Ngời (đại diện theo ấy quyền của bà Ba) lại xuất trình bản phô tô “giấy cam kết” đề ngày 01-12-1999 có hội dung ông Thơi thùa nhận bà Ba đã mượn vốn của ông Hào để nhận chuyển nhượng diện tích đất 1.404m2. Tòa án cấp phúc thẩm đã căn cứ vào bản phô tô “ Giấy cam kết”đề ngày 16-7-1999 do ông Thơi xuất trình để xác định có việc vợ chồng ông Thơi nhờ bà Ba đứng tên hộ trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất 920m2 nhưng lại không chấp nhận “ Giấy cam kết” đề ngày 01-12-199 do ông Ngời xuất trình vì cho rằng đây chỉ là bản phô tô. Tại đơn khiếu nại đề ngày 09-3-2007, ông Ngời trình bày hiện bản chính “ Giấy cam kết” ngày 01-12-1999 đang được lưu tại Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao. Kết quả kiểm tra tại Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao cho thấy bản chính “ Giấy cam kết” ngày 01-12-1999 được lưu trong hồ sơ vụ án “ đòi nợ và yêu cầu thực hiện hợp đồng gửi giữ tài sản” giữa nguyên đơn là ông Hảo với bị đơn là ông Thơi, có nội dung đúng như bản phô tô “ Giấy cam kết” mà ông Ngời đã xuất trình với Tòa án cấp phúc thẩm.

    Như vậy, quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đã có thiếu sót khi không tiến hành lấy lời khai của vợ chồng ông Bình để làm rõ việc chuyển nhượng đất, không xác minh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Ba dựa trên cơ sở nào, không xác minh tại Ủy ban nhân dân xã Phước Thạnh về việc lập hai “ Giấy cam kết” ngày 16-7-1999 và ngày 01-12-199 và cũng không kiểm tra tính xác thực của “ Giấy cam kết” ngày 01-12-1999 do phía nguyên đơn xuất trình tại phiên tòa phúc thẩm. Do vậy, việc Tòa án các cấp buộc bà Ba lập thủ tục chuyển quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông Thơi là chưa đủ căn cứ.

    Tại phiên tòa giám đốc thẩm đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị số 28/200g/KN-DS ngày 06-7-2009 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

     

    XÉT THẤY:

    Bà Nguyễn Thị Ba cho rằng trong số diện tích đất l.404m2 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 310103/QSDĐ/PT ngày 10-7-1994 do bà Ba đứng tên có 484m2 đất bà nhận chuyến nhượng của vợ chồng ông Dương Văn Bình và bà Nguyễn Thị Phụng; còn phần đất có diện tích 920m2, do vợ chồng ông Nguyễn Văn Thơi và bà Nguyễn Thị Bé nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông Bình, bà Phụng nhưng sau đó đã chuyển nhượng lại cho bà, nguồn tiền nhận chuyển nhượng đất do bà mượn của ông Nguyên Văn Hảo (em của bà Ba, hiện đang định cư tại Canada). Ngày 09-1998, ông Bình đã viết giấy sang nhượng cả 3 phần đất nêu trên cho bà Ba. Phía vợ chồng ông Thơi không thừa nhận cứ việc chuyển nhượng 920m2 đất cho bà Ba mà cho rằng chỉ nhờ bà Ba đứng tên hộ trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Như vậy, các đương sự có lời khai mâu thuẫn khi giải quyết vụ án. Tòa án các cấp không tiến hành lấy lời khai của vợ chồng ông Bình, bà Phụng để làm rõ về người thực tế nhận chuyển nhượng đất nhưng lại xác định ông Thơi, bà Bé nhận chuyển nhượng diện tích đất có tranh chấp là chưa đủ căn cứ.

    Mặt khác để chứng minh cho yêu cầu phản tố của mình, vợ chồng ông Thơi, bà Bé xuất trình bản phô tô “ Giấy cam kết” đề ngày 16- 7- 1999 có nội dung bà Ba thừa nhận có việc vợ chồng ông Thơi, bà Bé nhờ bà Ba đứng tên hộ trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất 920m2 mà vợ chồng ông Thơi, bà Bé cho rằng đã nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông Bình, bà Phụng. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm, ông Nguyễn Văn Ngời (đại diện theo ủy quyền của bà Ba) lại xuất trình bản phô tô “Giấy cam kết" đề ngày 01-12-1999 có nội dung ông Thơi thủa nhận bà Ba đã mượn vốn của ông Hảo để nhận chuyển nhượng diện tích đất 1.404m2 . Tòa án cấp phúc thẩm chỉ căn cứ vào bản phô tô “Giấy cam kết” đề ngày 16-7-1999 (do ông Thơi xuất trình) để xác định có việc vợ chồng ông Thơi nhờ bà Ba đúng tên hộ trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất 920m2 mà không xem xét, đánh giá về “giấy cam kết" đề ngày 01-12-1999 (do ông Ngời xuất trình) nhưng lại cho rằng đây chỉ là bản phô tô là không xem xét, đánh giá toàn diện các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Trong thực tế, bản chính “Giấy cam kết” ngày 01-12-1999 có trong hồ sơ vụ án “Đòi nợ và yêu cầu thực hiện hợp đồng gửi giữ tài sản" giữa nguyên đơn và ông Hảo với bị đơn và ông Thơi và có nội dung phù họp với “Giấy canh kết" ngày 01-12-1999 do ông Ngời xuất trình tại phiên tòa phúc thẩm.

    Hơn nữa, tuy vợ chồng ông chơi trực tiếp quản lý, canh tác diện tích đất có tranh chấp những bà Ba là người được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm cũng không xác minh về trình tự, thủ tục kê khai, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Ba đã đúng quy định của pháp luật hay chưa và cũng không xác minh về việc lập hai “ Giấy cam kết” ngày 16-7-1999 và ngày 01-12-1999 để xác định tính xác thực, tính pháp lý của hai “Giấy cam kết" nêu trên nhưng đế giải quyết vụ án là xác minh, đánh giá chứng cứ không đầy đủ.

    Vì các lẽ trên; căn cứ khoản 3 Điều 291, khoản 3 Điều 297, khoản 2 Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự.

    QUYẾT ĐỊNH:

    1. Hủy bản án dân sự phúc thẩm sò416/2006/DS-PT ngày 03-l0-2006 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và bản án dân sự sơ thẩm số 06/2006/DSST ngày 07-4-2006 của Toà án nhân dân tỉnh Tiên Giang về vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất" nữa nguyên đơn là bà Nguyên Thị Ba với bị đơn là ông Nguyễn Văn Thơi, bà Nguyễn Thị Bé.

    2. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm tại : theo đúng quy định của pháp luật.

     

     

     

     

     
    4208 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận