Quyết định giám đốc thẩm về vụ án Tranh chấp quyền sử dụng đất

Chủ đề   RSS   
  • #265234 29/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3536)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4354 lần


    Quyết định giám đốc thẩm về vụ án Tranh chấp quyền sử dụng đất

    Số hiệu

    35/2007/DS-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm về vụ án Tranh chấp quyền sử dụng đất

    Ngày ban hành

    04/10/2007

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Dân sự

     

    ……..

    Ngày 04 tháng 10 năm 2007, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự “tranh chấp quyền sử dụng đất ” giữa:

    Nguyên đơn: Anh Đỗ Văn Bình, sinh năm 1953; trú tại ấp Thống Nhất, xã Long Toàn, huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh.

    Bị đơn: Anh Đỗ Văn Thắng, sinh năm 1959; trú tại ấp Thống Nhất, xã Long Toàn, huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh.

    Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

    1. Ông Đỗ Cõi, sinh năm 1926, định cư tại Mỹ;

    2. Bà Đỗ Thị Tỷ, sinh năm 1933; trú tại E92/8 khu phố 2, thị trấn Hoà Thành, huyện Hoà Thành, tỉnh Tây Ninh;

    3. Bà Đỗ Thị Inh, sinh năm 1941; trú tại ấp Trường Thiện, xã Trường Hòa, huyện Hoà Thành, tỉnh Tây Ninh;

    4. Chị Nguyễn Thị Thanh, sinh năm 1957; trú tại ấp Thống Nhất, xã Long Toàn, huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh;

    Đều ủy quyền cho anh Bình đại diện theo giấy ủy quyền ngày 03-8-2005 và ngày 12-9-2005.

    5. Bà Trương Thị Sử, sinh năm 1914;

    6. Chị Nguyễn Thị Tiếu, sinh năm 1959;

    7. Chị Đỗ Thị Hồng Thắm, sinh năm 1980;

    8. Anh Đỗ Phú Vinh, sinh năm 1982;

    9. Anh Đỗ Phú Hiển, sinh năm 1988;

    10. Anh Lư Văn Trường, sinh năm 1975;

    Đều trú tại ấp Thống Nhất, xã Long Toàn, huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh và đều ủy quyền cho anh Thắng đại diện theo giấy ủy quyền ngày 01-8-2005.

    NHẬN THẤY:

    Tại đơn khởi kiện ngày 17-5-2005 và quá trình tố tụng, anh Đỗ Văn Bình trình bày: Nguồn gốc thửa đất số 73 tờ bản đồ số 11 diện tích là 4.240m2 đất (số đo thực tế là 4.697m2) hiện đang tranh chấp, tọa lạc tại ấp Thống Nhất, xã Long Toàn, huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh là của ông Đỗ Phong Lưu (ông nội anh Bình) cho cha của anh là ông Đỗ Cõi từ lúc anh còn nhỏ. Trước giải phóng (năm 1975), do chiến tranh nên ông Cõi không canh tác. Năm 1976, ông Cõi từ tỉnh Tây Ninh về canh tác diện tích đất trên; đến năm 1979 ông Cõi trở lại Tây Ninh ở. Năm 1991, ông Cõi xuất cảnh sang Mỹ định cư, ông Cõi có gửi lại diện tích đất nêu trên cho chú họ là ông Đỗ Thành Trung (em ông Lưu và là cha của anh Thắng) giữ giùm; thời gian đó gia đình anh đang sống ở tỉnh Tây Ninh, nên không thể về đất này canh tác được. Năm 1999, anh từ Tây Ninh về cất nhà ở tại một phần đất nêu trên. Năm 2001, anh Thắng yêu cầu anh ký để cho anh Thắng bán 1/3 diện tích đất nêu trên, nhưng anh không đồng ý, từ đó phát sinh tranh chấp. Ngày 17-5-2005, anh Bình khởi kiện yêu cầu anh Thắng trả cho anh quyền sử dụng diện tích đất nêu trên (chiều ngang khoảng 70m, dài khoảng 80m tại ấp Thống Nhất, xã Long Toàn do anh Thắng đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất).

    Ngày 22-8-2005, bà Đỗ Thị Tỷ và bà Đỗ Thị Inh (đều là em ông Cõi và là cô ruột anh Bình) cũng có đơn khởi kiện đòi anh Thắng trả phần đất 4.697m2 đất nêu trên và đề nghị Tòa án giải quyết chia đất trên làm 3 phần cho 2 bà và ông Cõi (cha của anh Bình) mỗi người một phần. Ngày 12-9-2005, bà Tỷ và bà Inh lại cùng có đơn xin rút đơn khởi kiện; đồng thời cùng ngày 12-9-2005 bà Tỷ và bà Inh cùng có giấy ủy quyền cho anh Bình thay mặt họ được khởi kiện đòi anh Thắng trả diện tích đất nêu trên.

    Ông Đỗ Cõi trình bày: Đất tranh chấp giữa anh Bình với anh Thắng là đất của ông nội ông chia cho cha ông là Đỗ Phong Lưu trước năm 1945. Phần đất này ông có sử dụng từ năm 1976 đến 1979 và trồng dừa làm ranh; năm 1979 ông về Tây Ninh ở và năm 1991 xuất cảnh sang Mỹ. Ông có chủ trương cho em ông là Đỗ Thị Tỷ và cho con ông là anh Bình khởi kiện yêu cầu anh Thắng trả đất.

    Anh Đỗ Văn Thắng trình bày: Trước năm 1940, cha của anh là Đỗ Thành Trung đã gìn giữ đất của ông Đỗ Cõi (cha của anh Bình). Trước ngày 30-4-1975, do chiến tranh đất bỏ hoang. Năm 1976, ông Trung kêu ông Cõi từ Tây Ninh về để trả lại phần đất mà ông Trung đã gìn giữ nêu trên cho ông Cõi; ông Cõi có về cất nhà ở và trồng cây ăn trái trên phần đất này, nhưng vì đất nhiễm phèn nên năm 1979 ông Cõi trở về Tây Ninh. Năm 1991, ông Cõi xuất cảnh sang Mỹ, đất nêu trên do gia đình anh tiếp tục quản lý, sử dụng kê khai đăng ký vào các năm 1982, 1993, 1997 và năm 1999 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Cùng năm 1999 (sau khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất), vợ chồng ông Cõi về nước có xin anh một nền đất ngang 6m, dài 20m để cất nhà cho con là anh Bình ở. Năm 2003, ông Cõi từ Mỹ về và anh Bình khởi kiện đòi đất. Anh không đồng ý trả lại đất vì đã quản lý, sử dụng ổn định và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

    Ngày 17-5-2005, anh Bình đã nộp 50.000 đồng tạm ứng án phí và Tòa án nhân dân huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh đã thụ lý vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn là anh Bình với bị đơn là anh Thắng.

    Tại Quyết định số01/QĐ-CVA ngày 10-6-2005, Tòa án nhân dân huyện Duyên Hải đã quyết định chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh giải quyết theo thẩm quyền vì vụ án có đương sự là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đang ở nước ngoài.

    Ngày 23-6-2005, Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh đã thụ lý vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất và xác định nguyên đơn là anh Bình, bị đơn là anh Thắng; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bao gồm 10 người (trong đó có ông Cõi, bà Tỷ và bà Inh).

    Tại bản án dân sự sơ thẩm số 63/2005/DSST ngày 26-12-2005, Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh quyết định:

    Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 34 Bộ luật tố tụng dân sự

    Các Điều 5, 10, 50 và 136 Luật Đất đai năm 2003.

    Bác yêu cầu khởi kiện của anh Đỗ Văn Bình về việc buộc anh Đỗ Văn Thắng phải giao trả quyền sử dụng đất diện tích 4.697m2.

    Công nhận diện tích đất 4.697m2tranh chấp hộ anh Thắng đã được Uỷ ban nhân dân huyện Duyên Hải cấp quyền sử dụng đất tại các thửa 72, 73 tờ bản đồ số 11, tọa lạc tại ấp Thống Nhất, xã Long Toàn, huyện Duyên Hải thuộc quyền sử dụng của hộ anh Đỗ Văn Thắng.

    Công nhận sự tự nguyện của anh Thắng cho anh Bình được quyền sử dụng một nền nhà đang ở ngang 6m, dài 40m, có tứ cận:

    - Bắc giáp phần còn lại thửa 73, dài 40m.

    - Nam giáp phần còn lại thửa 73, dài 40m.

    - Đông giáp phần còn lại thửa 73, dài 6m.

    - Tây giáp Quốc lộ 53, dài 6m. Diện tích chung 240m2.

    Các đương sự có nghĩa vụ làm thủ tục theo quy định để được tách quyền sử dụng đất.

    Buộc anh Bình phải di dời một cây giếng bơm ra khỏi phần đất thuộc quyền sử dụng của anh Thắng.

    Ngoài ra, Tòa  án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và lệ phí định giá.

    Ngày 05-01-2006, anh Bình kháng cáo cho rằng: Theo bản tự khai anh Thắng thừa nhận diện tích đất tranh chấp là đất của gia tộc đã phân chia cho gia đình ông Cõi sử dụng từ trước năm 1945. Sau năm 1975, ông Cõi có xây cất nhà và trồng cây ăn trái trên đất đó. Như vậy, ông Cõi mới là người sử dụng đất này chứ không phải là anh Thắng.

    Tại bản án dân sự phúc thẩm số 199/2006/DSPT ngày 07-6-2006, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

    1- Chấp nhận kháng cáo của anh Đỗ Văn Bình đại diện các thừa kế của ông Đỗ Phong Lưu.

    2- Sửa bản án sơ thẩm.

    - Buộc hộ anh Đỗ Văn Thắng có trách nhiệm trả toàn bộ diện tích 4.240m2 đất tại thửa 73 tờ bản đồ số 11 tọa lạc tại ấp Thống Nhất, xã Long Toàn, huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh cho các thừa kế của ông Đỗ Phong Lưu, bà Nguyễn Thị Trước.

    - Thi hành ngay sau khi bản án phát sinh hiệu lực pháp luật.

    3- Kiến nghị Uỷ ban nhân dân huyện Duyên Hải thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có diện tích 4.240m2 tại thửa 73, cấp ngày 04-5-1999 mang tên hộ anh Đỗ Văn Thắng.

    - Các thừa kế của ông Đỗ Phong Lưu được liên hệ với cơ quan Tài nguyên-Môi trường huyện Duyên Hải để hợp thức hóa quyền sử dụng đất như đã nêu ở Điều 2 theo quy định của pháp luật.

    Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.

    Ngày 17-8-2006, anh Thắng có đơn khiếu nại bản án dân sự phúc thẩm nêu trên.

    Tại Công văn số361/UBND-NC ngày 16-8-2006, Uỷ ban nhân dân huyện Duyên Hải đề nghị Tòa án nhân dân tối cao xem xét lại bản án dân sự phúc thẩm nêu trên.

    Tại Quyết định kháng nghị số156/2007/KN-DS ngày 01-8-2007, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số 199/2006/DSPT ngày 07-6-2006 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm huỷ bản án dân sự phúc thẩm nêu trên; giao hồ sơ vụ án cho Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật với nhận định:

    Nguồn gốc đất hiện đang tranh chấp (số đo thực tế là 4.697m2), tọa lạc tại ấp Thống Nhất, xã Long Toàn, huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh là của ông Đỗ Phong Lưu (là cha của ông Đỗ Cõi và là ông nội của anh Đỗ Văn Bình); nhưng ông Lưu không quản lý, sử dụng, mà do ông Đỗ Thành Trung (cha của anh Đỗ Văn Thắng) trực tiếp quản lý, sử dụng. Năm 1976, ông Cõi (con ông Lưu) từ tỉnh Tây Ninh về tỉnh Trà Vinh ở và được ông Trung trả lại toàn bộ diện tích đất nêu trên; ông Cõi quản lý, sử dụng được khoảng 3 năm thì do đất nhiễm phèn, không canh tác được, nên năm 1979 ông Cõi không sử dụng nữa và về Tây Ninh sinh sống. Năm 1982, Nhà nước thực hiện việc đo đạc, kê khai đăng ký đất, ông Cõi không kê khai đăng ký, mà ông Trung và anh Đỗ Văn Cung (anh ruột của anh Thắng) kê khai đăng ký, sử dụng đất nêu trên. Năm 1991 ông Cõi xuất cảnh và định cư tại Mỹ. Từ năm 1993 đến năm 1997 anh Thắng đứng tên kê khai đăng ký toàn bộ diện tích đất này và năm 1999 anh Thắng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

    Như vậy theo các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án thì ông Cõi đã bỏ đất hoang từ năm 1979 và đã định cư ở nước ngoài, các con ông Cõi cũng không ở tại địa phương nơi có đất tranh chấp, nên phải coi đây là trường hợp gia đình ông Cõi đã từ bỏ quyền sử dụng đất; anh Thắng đã sử dụng đất ổn định từ năm 1993, quá trình sử dụng đất, anh Thắng đã cải tạo, trồng cây lâu năm (trên đất tranh chấp còn có mồ mả của người thân của anh Thắng); Uỷ ban nhân dân huyện Duyên Hải đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên cho hộ anh Thắng vào năm 1999, nhưng không có ai khiếu nại tranh chấp và Uỷ ban nhân dân huyện Duyên Hải vẫn xác nhận việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ anh Thắng được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục quy định của Luật Đất đai. Vì vậy, Tòa án cấp phúc thẩm buộc hộ anh Thắng trả lại toàn bộ diện tích 4.240m2 đất tại thửa 73 tờ bản đồ số 11 tọa lạc tại ấp Thống Nhất, xã Long Toàn, huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh cho các thừa kế của ông Đỗ Phong Lưu, bà Nguyễn Thị Trước là không có cơ sở.

    Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. 

    XÉT THẤY:

    Diện tích 4.242mđất (số đo thực tế là 4.697m2, thuộc thửa 73 tờ bản đồ số 11) tại ấp Thống Nhất, xã Long Toàn, huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh (hiện có tranh chấp giữa anh Đỗ Văn Bình với anh Đỗ Văn Thắng) là của cụ Đỗ Phong Lưu (cha của ông Đỗ Cõi và là ông nội của anh Bình) được ông bà chia cho từ trước năm 1945, nhưng cụ Lưu không quản lý, sử dụng mà do ông Đỗ Thành Trung (anh cụ Lưu và là cha của anh Thắng) quản lý, sử dụng. Vợ chồng cụ Đỗ Phong Lưu và cụ Nguyễn Thị Trước có 3 con chung là ông Đỗ Cõi, bà Đỗ Thị Tỷ và bà Đỗ Thị Inh.

    Trước ngày giải phóng miền Nam (30-4-1975), gia đình ông Cõi ở tỉnh Tây Ninh. Năm 1976, ông Cõi từ Tây Ninh về tỉnh Trà Vinh ở, được ông Trung trả lại toàn bộ diện tích đất nêu trên và ông Cõi đã trồng cây lâu năm (trồng dừa) trên diện tích đất này; do đất nhiễm phèn, không canh tác được, nên năm 1979 ông Cõi bỏ lại diện tích đất có trồng dừa và trở lại Tây Ninh ở. Năm 1991, ông Cõi xuất cảnh và định cư tại Mỹ; các con của ông Cõi thì ở Tây Ninh; các em của ông Cõi là bà Đỗ Thị Tỷ và bà Đỗ Thị Inh cũng không trực canh, không đăng ký kê khai đối với diện tích đất này. Sau khi ông Cõi bỏ diện tích đất có trồng dừa nêu trên, năm 1979 gia đình anh Thắng (con ông Trung) tiếp tục quản lý, sử dụng. Năm 1982, Nhà nước thực hiện việc đo đạc, kê khai đăng ký đất, ông Cõi không kê khai đăng ký, mà ông Đỗ Thành Trung và anh Đỗ Văn Cung (là cha ruột và anh ruột của anh Thắng) kê khai đăng ký, sử dụng đất nêu trên. Từ năm 1993 đến năm 1997 anh Thắng đứng tên kê khai đăng ký toàn bộ diện tích đất này và năm 1999 anh Thắng được Uỷ ban nhân dân huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng toàn bộ diện tích đất nêu trên theo đúng trình tự, thủ tục quy định. Như vậy, anh Thắng đã trở thành người sử dụng đất hợp pháp theo quy định tại khoản 4 Điều 5 của Luật Đất đai năm 2003. Trong khi đó, những người thừa kế của cụ Lưu và cụ Trước lại có lời khai khác nhau (ông Cõi cho rằng ông được cha mẹ cho ông diện tích đất nêu trên, còn bà Tỷ và bà Inh lại đều cho rằng đất của cha mẹ để lại cho 3 anh em); đồng thời cả 3 người ủy quyền cho anh Bình đại diện khởi kiện đòi anh Thắng trả lại diện tích đất nêu trên, nhưng họ cũng không xuất trình được chứng cứ để chứng minh đất đó thuộc quyền sử dụng hợp pháp của mình. Vì vậy, Tòa án cấp phúc thẩm buộc anh Thắng trả lại đất cho các thừa kế của vợ chồng cụ Lưu và cụ Trước là không có cơ sở. Tòa án cấp sơ thẩm công nhận diện tích đất 4.697m2hộ anh Thắng đã được Uỷ ban nhân dân huyện Duyên Hải cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thuộc quyền sử dụng của hộ anh Đỗ Văn Thắng và công nhận sự tự nguyện của anh Thắng cho anh Bình được quyền sử dụng 240mđất (có mô tả tứ cận) là có căn cứ; tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm chưa xem xét, giải quyết về 15 cây dừa do ông Cõi trồng hiện đang còn sống trên phần đất tranh chấp (theo biên bản định giá ngày 26-7-2005, giá trị mỗi cây dừa là 200.000 đồng) là chưa đảm bảo quyền lợi hợp pháp của đương sự.

    Mặt khác, anh Bình chỉ là đại diện theo ủy quyền của ông Cõi, bà Tỷ và bà Inh khởi kiện đòi anh Thắng trả lại đất, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm lại xác định anh Bình là nguyên đơn là không đúng. Nếu xác định anh Bình là nguyên đơn thì lại thuộc trường hợp nguyên đơn không có quyền khởi kiện (anh Bình là cháu cụ Lưu, không thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ Lưu) và trường hợp này Tòa án phải trả lại đơn khởi kiện cho anh Bình theo điểm b khoản 1 Điều 168 Bộ luật tố tụng dân sự.

    Vì vậy, phải hủy bản án phúc thẩm nêu trên và hủy bản án sơ thẩm số 63/2005/DSST ngày 26-12-2005 của Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh để Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh giải quyết lại vụ án theo hướng trả lại đơn cho anh Bình, hướng dẫn các đương sự khởi kiện theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự và giải quyết vụ án theo đúng pháp luật.

        Vì lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 297, khoản 3 Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự. 

    QUYẾT ĐỊNH:

    1. Hủy bản án dân sự phúc thẩm số 199/2006/DSPT ngày 07-6-2006 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và hủy bản án dân sự sơ thẩm số 63/2005/DSST ngày 26-12-2005 của Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh về vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn là anh Đỗ Văn Bình và bị đơn là anh Đỗ Văn Thắng; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là các ông, bà Đỗ Cõi, Đỗ Thị Tỷ, Đỗ Thị Inh, Trương Thị Sử và các anh, chị Nguyễn Thị Thanh, Nguyễn Thị Tiếu, Đỗ Thị Hồng Thắm, Đỗ Phú Vinh, Đỗ Phú Hiển, Lư Văn Trường.

    2. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.           

    Lý do bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm bị hủy:

    Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định chưa đúng tư cách nguyên đơn. Tòa án cấp phúc thẩm buộc bị đơn trả lại đất là chưa có cơ sở.

     

     
    3475 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận