Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản"

Chủ đề   RSS   
  • #265205 29/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản"

    Số hiệu

    23/2007/DS-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản"

    Ngày ban hành

    10/07/2007

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Dân sự

     

    …..

    Ngày 10 tháng 7 năm 2007, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự  “tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản” giữa:

    Nguyên đơn: Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại AMC có trụ sở tại nhà số 130 Hàm Nghi, phường Bến Thành, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh, do ông Nguyễn Quốc Hùng - Giám đốc  Công ty là người đại diện theo pháp luật.

    Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Ngọc Oanh sinh năm 1965; trú tại nhà số 2536/2A khu phố 2, phường An Phú Đông, quận 12, thành phố Hồ Chí Minh.  

    Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

    1. Công ty Liên doanh Sản xuất ô tô Ngôi Sao (VSM) có trụ sở tại xã An Bình, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

    2. Công ty Trách nhiệm hữu hạn Gia Đạt có trụ sở tại nhà số 34 Hai Bà Trưng, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ.

    NHẬN THẤY:

    Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại AMC (sau đây gọi tắt là Công ty AMC) là đại lý ủy quyền kinh doanh xe ô tô Mitsubishi của Công ty Liên doanh sản xuất ô tô Ngôi Sao VSM (sau đây gọi tắt là Công ty VSM), theo hợp đồng đại lý bán xe số 0411/03/SM/VSM ngày 01-4-2003.

    Tại đơn khởi kiện đề ngày 27-11-2003 và các lời khai tại Toà án trong quá trình giải quyết vụ án, Công ty AMC trỡnh bày:

    Ngày 29-9-2003 bà Nguyễn Thị Oanh thỏa thuận với Công ty AMC mua một chiếc xe ôtô 7 chỗ ngồi hiệu Mitsubishi Pajerox (mới 100%, màu sơn A37) với giá đã gồm thuế là 544.215.000 đồng (tương đương 35.000USD). Bà Oanh yêu cầu nâng cấp xe với chi phí do bà Oanh chịu là 1800 USD và Công ty AMC hỗ trợ 2.900 USD.

     Ngày 30-9-2003, Công ty VSM, Công ty AMC và bà Oanh đã ký hợp đồng mua bán số 426/0309 với nội dung Công ty VSM bán cho bà Oanh một  chiếc xe ôtô 7 chỗ ngồi hiệu Mitsubishi Pajerox (mới 100%, màu sơn A37, nhưng sau đó bị sửa thành màu H52) với giá 35.000 USD, thanh toán bằng tiền Việt Nam và thời hạn giao hàng trong vòng 14 ngày, sau khi bên bán nhận đủ 100% số tiền trên hợp đồng.

    Cùng ngày, bà Oanh và Công ty AMC ký phụ kiện hợp đồng thỏa thuận về việc thực hiện hợp đồng mua bán xe số 426/0309 ngày 30-9-2003 giữa Công ty VSM, Công ty AMC và bà Oanh. Theo phụ kiện hợp đồng thì bên mua thanh toán 100% giá trị xe bằng tiền mặt ngay sau khi ký hợp đồng; Công ty trang bị với giá ưu đãi lệ phí trước bạ, bao bánh xe sơ cua loại Supreme, bậc lên xuống, sơn chân A69, thay đổi vô lăng xe; khách hàng chịu lệ phí đăng ký xe, bọc nệm da, lắp ráp giàn lạnh phía sau; hai bên cùng cam kết thực hiện đúng các điều khoản nêu trên, không bên nào được đơn phương huỷ bỏ hợp đồng; bên đơn phương huỷ hợp đồng sẽ phải chịu mọi chi phí và bồi thường thiệt hại cho phía bên kia.

    Sau khi ký phụ kiện hợp đồng, bà Oanh nộp cho Công ty AMC số tiền bằng 1/2 giá trị chiếc xe (tương đương với 17.500 USD) và 1.800 USD chi phí lắp ráp linh kiện; tổng cộng là 19.300 USD. Tuy nhiên, ngay sau khi nhận được tiền đền bù từ bà Oanh thì Công ty AMC lại chuyển đủ 100% tiền mua xe cho Công ty VSM.

    Ngày 01-10-2003 Công ty VSM xuất hoá đơn cho bà Oanh và phát hành lệnh giao xe và Công ty AMC tiến hành nâng cấp xe.

    Ngày 03-10-2003, khi đến xem xe, bà Oanh yêu cầu giao xe sớm vì phải đi nước ngoài, nên Công ty AMC đã nộp lệ phí trước bạ cho người mua số tiền là 27.210750 đồng.

    Ngày 04-10-2003 hai bên tiến hành bàn giao xe, nhưng bà Oanh không đồng ý nhận xe với lý do xe chưa bóng đều, nhiều hạt nhám.

    Ngày 21-11-2003 bà Oanh có văn bản yêu cầu huỷ hợp đồng mua bán và đòi tiền lại.

    Ngày 20-4-2004 Công ty AMC đã bán chiếc xe trên cho Công ty Gia Đạt với giá 608.596.200 đồng.

    Công ty AMC cho rằng bà Oanh có lỗi đơn phương hủy bỏ hợp đồng nên yêu cầu huỷ hợp đồng mua bán số 426/0309 ngày 29-9-2003 giữa bà Oanh, Công ty AMC và Công ty VSM theo yêu cầu đơn phương chấm dứt hợp đồng của bà Oanh (văn bản đề ngày 25-11-2003), bà Oanh phải trả cho Công ty 76.209.974 đồng gồm tiền lãi của 1/2 số tiền Công ty AMC đã ứng trả cho Công ty VSM, tiền vốn và lãi mà Công ty đã bỏ ra để nâng cấp xe, tiền trước bạ nộp thay cho bà Oanh.

    Bà Oanh trình bày: Bà ký hợp đồng với Công ty VSM mua một chiếc xe ôtô màu sơn ký hiệu A37, nhưng thực tế khi giao xe thì xe có màu sơn là H52.

    Ngày 04-10-2003 khi giao nhận xe bà cũng đồng ý nhận xe màu H52,  nhưng do màu sơn chưa bóng đều có nhiều hạt nhám, nên bà yêu cầu Công ty AMC khắc phục. Tuy nhiên, qua hai lần đều không khắc phục được nên bà không nhận xe và yêu cầu huỷ hợp đồng mua bán xe. Việc Công ty AMC tự ứng 50% giá trị của xe, đi đóng thuế trước bạ là do Công ty AMC tự làm nên bà không chịu trách nhiệm. Đồng thời, ngày 05-7-2004, bà Oanh có đơn phản tố yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng đã ký, bên bán đổi cho bà một chiếc xe khác với đầy đủ chức năng và giá cả thoả thuận trong hợp đồng.

    Công ty VSM trình bày: Công ty có hợp đồng đại lý mua bán xe ôtô với Công ty AMC. Ngày 30-9-2003 Công ty bán cho bà Oanh 1 xe ôtô thông qua Công ty AMC. Việc nâng cấp xe là do Công ty AMC hợp đồng với khách hàng, Công ty VSM không chịu trách nhiệm, nếu bà Oanh đồng ý lấy một chiếc xe mới Công ty sẽ hỗ trợ giảm 500 USD thông qua Công ty AMC.

    Tại bản án dân sự sơ thẩm số 386/DSST ngày 07-3-2005, Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

    - Chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn.

    - Hủy hợp đồng mua bán xe Mitsubishi 7 chỗ ngồi, số khung RLA00V33V 31000176, số máy 6G 72 QK8729 giữa Công ty VSM, bà Nguyễn Thị Ngọc Oanh và đại lý Công ty AMC số 426/0309 ký ngày 30-9-2003 và phụ kiện hợp đồng giữa công ty AMC và bà Oanh ký ngày 30-9-2003.

    - Bác yêu cầu của bà Oanh đòi Công ty  phải trả tiền lãi trên 50% giá trị xe, tiền chênh lệch giá xe là 380.000.000 đồng.

    - Bác yêu cầu của Công ty AMC, buộc bà Oanh phải trả tiền lệ phí trước bạ, khoản tiền lãi trên lệ phí trước bạ, tiền nâng cấp xe do Công ty AMC khuyến mói là 76.209.924đồng.

    - Công ty AMC phải trả cho bà Oanh tiền 50% giá trị chiếc xe đã nộp là 272.107.500 đồng ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.

    - Bà Oanh nhận tại Công ty AMC phần chi phí nâng cấp xe do bà chịu theo phụ kiện hợp đồng gồm 50USD (chi phí đổi vô lăng), bao bánh cứng, nệm da, hộp sơn A 69 sơn chân xe và giàn lạnh phía sau.

    Ngoài ra, Toà án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo.

    Ngày 10-3-2005 Công ty AMC kháng cáo yêu cầu bà Oanh phải trả tiền lệ phí trước bạ và tiền lãi phát sinh.

    Ngày 21-3-2005 bà Oanh kháng cáo yêu cầu bác đơn khởi kiện của Công ty AMC và công nhận đơn phản tố của bà.

    Tại bản án dân sự phúc thẩm số 207/DSPT ngày 13-6-2005, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao quyết định:

    Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn Công ty AMC, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị Ngọc Oanh; sửa một phần bản án sơ thẩm, tuyên xử:

    Chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn.

    - Huỷ hợp đồng mua bán chiếc xe 7 chỗ ngồi hiệu Mitsubishi Pajerox, mới 100%, số khung RLA00V33V 31000176, số máy 6G 72 QK8729 giữa bà Oanh, Công ty AMC và Công ty liên doanh sản xuất ôtô Ngôi sao (Công ty VSM) số 426/0309 ký ngày 30-9-2003 và phụ kiện hợp đồng giữa Công ty AMC và bà Oanh ký ngày 30-9-2003.

    - Bác yêu cầu của bà Oanh đòi Công ty AMC phải trả tiền lãi trên 50% giá trị xe, tiền chênh lệch giá xe là 380.000.000 đồng.

    - Buộc bà Oanh phải trả tiền lệ phí trước bạ, khoản tiền lãi trên lệ phí trước bạ, tiền lãi trên 50% giá trị xe mà Công ty đã ứng, tiền nâng cấp xe tổng cộng là 76.209.974 đồng cho Công ty AMC.

    - Công ty AMC phải trả cho bà Oanh tiền 50% giá trị chiếc xe đã nộp là 272.107.500 đồng ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật. Bà Oanh nhận tại Công ty AMC phần chi phí nâng cấp xe do bà chịu theo phụ kiện hợp đồng gồm 50USD  (chi phí đổi vô lăng), bao bánh cứng, nệm da, hộp sơn A69 sơn chân xe và giàn lạnh phía sau.

    Ngoài ra, Toà án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.

    Ngày 15-8-2005, bà Nguyễn Thị Ngọc Oanh có đơn khiếu nại đề nghị xem xét bản án phúc thẩm theo trình tự giám đốc thẩm.

     Tại Quyết định số64/QĐ-KN ngày 04-5-2007, Chánh án Toà án nhân dân tối cao kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm huỷ bản án dân sự phúc thẩm nêu trên; giao hồ sơ vụ án cho Toà phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật với nhận định:

    Theo hợp đồng thì bà Oanh thỏa thuận mua 1 chiếc xe ô tô Mitsubishi Pajerox 7 chỗ, mới 100%. Khi phát hiện nước sơn chưa bóng đều, nổi nhiều hạt nhám, phía bà Oanh đã báo cho Công ty AMC nhưng Công ty không có biện pháp khắc phục; do đó, việc bà Oanh không đồng ý nhận xe và đề nghị thanh lý hợp đồng mua bán xe do chất lượng sơn của xe không đảm bảo là hoàn toàn do lỗi của bên bán; việc hủy hợp đồng mua bán xe ô tô đều đã được bên bán và bên mua đồng ý, thể hiện ở việc Công ty AMC đã đề nghị và được Công ty VSM thu hồi hóa đơn bán xe cho bà Oanh và lập hóa đơn mới bán xe cho khách hàng khác. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định bà Oanh đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật là không có căn cứ.

    Mặt khác, nội dung của phụ kiện hợp đồng được ký kết giữa bà Oanh với Công ty VSM không phải là phụ lục của hợp đồng mua bán xe giữa Công ty VSM, Công ty AMC với bà Oanh; bởi vì phụ kiện hợp đồng chỉ là giao dịch giữa bà Oanh với Công ty AMC mà không có sự thỏa thuận của Công ty VSM và nội dung của phụ kiện hợp đồng này thể hiện một giao dịch mới về việc khuyến mãi, trang bị một số thiết bị với giá ưu đãi... Do đó, điều khoản thanh toán nêu trong phụ kiện hợp đồng không có hiệu lực; việc Công ty AMC nộp lệ phí trước bạ thay cho bà Oanh là việc khuyến mãi và việc Công ty AMC nâng cấp xe chỉ được thực hiện khi bên mua xe là bà Oanh đồng ý nhận xe và thanh toán đủ tiền. Tòa án cấp phúc thẩm buộc bà Oanh phải thanh toán cho Công ty AMC tiền lệ phí trước bạ và chi phí nâng cấp xe cùng tiền lãi trong khi Công ty AMC đã được Công ty VSM lập hóa đơn mới bán chiếc xe cho khách hàng khác là không đúng pháp luật.

    Ngoài ra, sau khi ký hợp đồng, bà Oanh mới thanh toán được 50% giá trị hợp đồng (bằng 17.500 USD) cùng chi phí nâng cấp xe (1.800 USD), tổng cộng bằng 19.300 USD; nhưng Công ty AMC đã tự tạm ứng thêm 50% giá trị hợp đồng để nộp đủ 100% giá trị xe cho Công ty VSM, mà không có sự thỏa thuận với bà Oanh; do đó, bà Oanh không phải chịu trách nhiệm về khoản tiền lãi của số tiền tương đương 50% giá trị hợp đồng. Tòa án cấp phúc thẩm buộc bà Oanh phải trả cho Công ty AMC tiền lãi của 50% giá trị xe do Công ty AMC tạm ứng trước cho bà Oanh (là 4.963.240 đồng) là không có căn cứ. 

    Hợp đồng mua bán xe giữa Công ty VSM, Công ty AMC và bà Oanh không thực hiện được là do lỗi của Công ty AMC và do Công ty VSM đồng ý hủy hợp đồng mua bán giữa Công ty VSM, Công ty AMC với bà Oanh và đổi hóa đơn mua xe đứng tên Công ty AMC, nên lẽ ra Tòa án các cấp phải chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Oanh, buộc Công ty AMC trả lại tiền mua xe cho bà Oanh theo quy định của pháp luật.

        Tại phiên toà giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao chấp nhận Kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao.

    XÉT THẤY:

    Ngày 30-9-2003, Công ty VSM, Công ty AMC và bà Oanh ký hợp đồng số 426/0309 với nội dung Công ty VSM bán cho bà Oanh một chiếc xe ô tô Mitsubishi Pajerox 7 chỗ, mới 100% màu sơn A37 (nhưng sau đó chữ A37 được sửa thành H52) với giá 35.000 USD. Trong hợp đồng này, đại diện của Công ty AMC tham gia ký kết với tư cách là Đại lý của Công ty VSM và với trách nhiệm là “chịu trách nhiệm cho giao dịch này”. Cùng ngày, bà Oanh và Công ty AMC ký “phụ kiện hợp đồng” thỏa thuận về việc thực hiện hợp đồng mua bán xe số 426/0309 ngày 30-9-2003 có nội dung bên mua thanh toán 100% giá trị xe bằng tiền mặt ngay khi ký hợp đồng; bên bán trang bị thêm cho bên mua một số phụ tùng theo giá ưu đãi.

    Sau khi ký phụ kiện hợp đồng, bà Oanh mới nộp cho Công ty AMC số tiền bằng 1/2 giá trị chiếc xe, tương đương với 17.500 USD và 1.800 USD chi phí lắp ráp linh kiện, tổng cộng là 19.300 USD. Tuy nhiên, ngay sau đó, Công ty AMC đã chuyển đủ 100% tiền mua xe cho Công ty VSM. Việc chuyển trả đủ tiền cho Công ty VSM là việc làm đơn phương của Công ty AMC nhằm mục đích sớm lấy được xe để thực hiện các công việc theo phụ kiện hợp đồng.

    Ngày 04-10-2003, hai bên tiến hành bàn giao xe, nhưng bà Oanh không đồng ý nhận xe với lý do nước sơn chưa bóng đều và yêu cầu Công ty AMC làm lại. Ông Nguyễn Minh Hùng (đại diện Công ty AMC) đồng ý và đã ký tên vào biên bản.

    Ngày 29-10-2003 ông Nguyễn Minh Hùng (đại diện của Công ty AMC) và bà Phương Hà (đại diện cho bà Oanh) đã tiến hành kiểm tra xe lần hai, nhưng xe vẫn không đạt được chất lượng về màu sơn và độ mịn, nổi nhiều hạt nhám, ông Hùng và bà Phương cùng ký vào biên bản.

    Như vậy, khi phát hiện nước sơn chưa bóng đều, nổi nhiều hạt nhám, phía bà Oanh đã báo cho Công ty AMC, nhưng Công ty không khắc phục được; do đó, việc bà Oanh không đồng ý nhận xe và đề nghị thanh lý hợp đồng mua bán xe do chất lượng sơn của xe không đảm bảo là do lỗi của bên bán. Hơn nữa, việc hủy hợp đồng mua bán xe ô tô đều đã được bên bán và bên mua đồng ý, thể hiện ở việc Công ty AMC đã đề nghị và được Công ty VSM thu hồi hóa đơn bán xe cho bà Oanh và lập hóa đơn mới bán chiếc xe ô tô nêu trên cho Công ty AMC vào ngày 03-11-2003. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định bà Oanh đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật là không có căn cứ.

    Các nội dung thỏa thuận trong phụ kiện hợp đồng giữa bà Oanh và Công ty AMC không phải là phụ lục của hợp đồng mua bán ký ngày 30-9-2003 giữa bà Oanh với Công ty VSM và Công ty AMC, bởi vì phụ kiện hợp đồng chỉ là giao dịch giữa bà Oanh với Công ty AMC mà không có sự thỏa thuận của Công ty VSM. Về nội dung của phụ kiện hợp đồng thể hiện một giao dịch mới về việc khuyến mãi, trang bị một số thiết bị với giá ưu đãi và hình thức thanh toán trong phụ kiện hợp đồng khác hoàn toàn hình thức thanh toán trong hợp đồng mua bán; do đó, điều khoản thanh toán nêu trong “phụ kiện hợp đồng” không có hiệu lực. Hợp đồng mua bán xe giữa Công ty VSM, Công ty AMC và bà Oanh không thực hiện được là do lỗi của Công ty AMC. Như đã phân tích ở trên, Công ty AMC đã tự tạm ứng 50% giá trị xe để nộp đủ 100% giá trị xe cho Công ty VSM, mà không có sự thỏa thuận với bà Oanh, nên không thể buộc bà Oanh phải chịu tiền lãi của số tiền tương đương 50% giá trị xe.

    Công ty AMC nộp lệ phí trước bạ thay cho bà Oanh là việc khuyến mãi khi mua xe và việc nâng cấp xe chỉ được thực hiện khi bà Oanh đồng ý nhận xe và thanh toán đủ tiền. Công ty AMC không yêu cầu khách hàng ký nhận trên lệnh giao xe mà đã thực hiện việc lắp ráp theo phụ kiện hợp đồng, đồng thời nộp thuế trước bạ trong khi khách hàng vẫn chưa giao đủ tiền là lỗi của Công ty AMC. Mặt khác, Công ty AMC bán chiếc xe này cho Công ty Gia Đạt khi đã được lắp ráp thêm có nghĩa là theo giá bao gồm cả giá trị những chi tiết lắp ráp thêm này. Tòa án cấp phúc thẩm buộc bà Oanh phải thanh toán cho Công ty AMC tiền lệ phí trước bạ và chi phí nâng cấp xe cùng tiền lãi là không đúng.

    Hợp đồng mua bán xe giữa Công ty VSM, Công ty AMC và bà Oanh không thực hiện được là do lỗi của Công ty AMC và do Công ty VSM đồng ý hủy hợp đồng mua bán giữa Công ty VSM, Công ty AMC với bà Oanh và đổi hóa đơn mua xe đứng tên Công ty AMC, nên cần phải buộc Công ty AMC trả lại các khoản tiền mà Công ty đã nhận của bà Oanh cùng với tiền lãi của số tiền này tính từ ngày Công ty AMC bán xe đến thời điểm xét xử sơ thẩm mới đảm bảo quyền lợi hợp pháp của bà Oanh.

    Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 297 và Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự,

    QUYẾT ĐỊNH:

    1. Huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 207/2005/DSPT ngày 13-6-2005 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh về vụ án “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản” giữa nguyên đơn là Công ty cổ phần Đầu tư và Thương mại AMC với bị đơn là bà Nguyễn Thị Ngọc Oanh.

     2. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

    Lý do bản án phúc thẩm bị hủy:

    Tòa án cấp phúc thẩm nhận định bị đơn (bà Oanh) đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật là không có căn cứ. Và buộc bị đơn phải bồi thường cho nguyên đơn (Công ty AMC) là không đúng.

    t� �nPx (�y n phí, điều kiện thi hành án của đương sự.

     

    Sau khi xét xử phúc thẩm ông Thắng khiếu nại bản án phúc thẩm với các nội dung sau:

    - Số tiền riêng của ông sau khi bỏ ra mua đất, xây nhà bằng 26% tổng giá trị tài sản (nhà đất), nhưng Tòa án không trừ trước khi chia tài sản chung vợ chồng.

    - Tòa án cấp phúc thẩm tính giá trị đất 2.300.000đ/1m2 là quá cao không đúng giá thực tế.

    - Diện tích 150m2 đất ông và bà Long sử dụng, năm 1993 ông mua có 120m2, còn 30m2 ông và ông Nghinh đã thỏa thuận để làm lối đi chung; nay gia đình ông Nghinh chuyển nhượng phần đất còn lại cho bà Đinh Thị Mai thì bà Mai đi lối đi chung trên phần đất 30m2 này, nhưng Tòa án lại giao cho ông 30m2 đất này buộc thanh toán bằng tiền cho bà Long là không đúng.

    Hợp đồng chuyển nhượng nhà đất giữa bà Long với bà Dĩnh ông có kháng cáo đề nghị hủy, nhưng Tòa án cấp phúc thẩm không xem xét.

    Bà Đinh Thị Mai (là người có nhà đất liền kề với nhà đất của vợ chồng ông Thắng, bà Long) cũng có đơn đề nghị Tòa án nhân dân tối cao xem xét lại bản án phúc thẩm với lý do diện tích đất của vợ chồng ông Thắng mua năm 1993 có 120m2 đã nộp thuế 120m2 đất trên 10 năm, phần đất còn lại 30m2 là đất lối đi chung giữa chủ đất cũ với gia đình ông Thắng nay thuộc đất làm lối đi chung của xóm và gia đình bà, nhưng Tòa án lại giao cho ông Thắng nên gia đình bà không có lối đi.

    Tại Quyết định số87/2007/KN-DS ngày 23-5-2007, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số 86/DSPT ngày 29-6-2004 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội về vụ án chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy bản án phúc thẩm nêu trên và hủy bản án dân sự sơ thẩm số01/ST-LH ngày 30-6-2003 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật với nhận định:

    “Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định nhà, đất có tranh chấp là tài sản chung của vợ chồng ông Hoàng Quang Thắng và bà Chu Thị Long để chia tài sản khi ly hôn là có căn cứ. Tuy nhiên Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa xác minh làm rõ và chưa xem xét đến diện tích làm lối đi đang có tranh chấp, nhưng lại xác định vợ chồng ông Thắng, bà Long có quyền sử dụng diện tích 150m2 đất là chưa đủ căn cứ; bởi vì:

    Trong quá trình giải quyết vụ án ban đầu cả ông Thắng và bà Long đều thừa nhận diện tích đất của vợ chồng là 150m2. Nhưng sau đó cả ông Thắng và bà Long đều khai diện tích đất chung chỉ là 120m2. Theo nội dung giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 23-3-1993, có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã Hợp Thành ngày 30-3-1993 thì diện tích đất ông Nghinh chuyển nhượng cho ông Thắng chỉ là 120m2; theo đơn xác nhận diện tích đất đang sử dụng đề ngày 03-01-1998 thì ông Thắng kê khai diện tích đất nhận chuyển nhượng của ông Nghinh chỉ có 120m2; Ủy ban nhân dân phường Vĩnh Trại cũng xác nhận diện tích ông Thắng được chuyển nhượng là 120m2; khi ông Thắng khai nộp thuế sử dụng đất ngày 09-12-1994, được Ủy ban nhân dân phường Vĩnh Trại xác nhận với diện tích ông Thắng sử dụng riêng là 120m2, diện tích phải nộp thuế 120m2, diện tích 30m2 là đất sử dụng chung với hộ khác; Chi cục thuế thị xã Lạng Sơn cũng xác nhận diện tích ông Thắng phải nộp thuế đất là 120m2  với số tiền nộp thuế là 44.200 đồng (có biên lai nộp thuế ngày 12-5-1995). Ngoài ra, tại biên bản định giá ngày 06-11-2003 thì diện tích đo đạc thực tế mà vợ chồng ông Thắng, bà Long có quyền sử dụng là 169m2. Lẽ ra phải xác minh làm rõ về diện tích đất mà ông Thắng, bà Long có quyền sử dụng, từ đó mới có đủ cơ sở giải quyết vụ án.

    Mặt khác, tại thời điểm bản án dân sự phúc thẩm số 05/DSPT ngày 11-3-1998 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn có hiệu lực pháp luật, ngày 03-4-2000 bà Long đã lập hợp đồng chuyển nhượng toàn bộ phần nhà, đất được chia cho bà Dĩnh và sau khi nhận sang nhượng bà Dĩnh đã quản lý, sử dụng, đã đầu tư sửa chữa lại nhà để ở; nhưng sau đó, khi xét xử phúc thẩm ngày 29-6-2004 đã quyết định giao cho ông Thắng sỡ hữu, sử dụng toàn bộ nhà, đất trong đó có phần của bà Dĩnh đã mua và sử dụng. Tòa án cấp phúc thẩm không giải quyết quan hệ hợp đồng chuyển nhượng nhà đất giữa bà Long với bà Dĩnh là không đúng (mặc dù bà Dĩnh có tham gia tố tụng và các đương sự có yêu cầu xem xét giải quyết quan hệ này).

    Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; hủy bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và bản án dân sự sơ thẩm số01/ST-LH ngày 30-6-2003 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn giải quyết lại vụ án theo đúng quy định của pháp luật.

    XÉT THẤY:

    Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định nhà, đất (đang có tranh chấp) là do ông Thắng, bà Long tạo lập trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng ông Thắng và bà Long để chia khi ly hôn là có căn cứ. Tuy nhiên trong quá trình giải quyết vụ án ban đầu ông Thắng và bà Long khai diện tích của vợ chồng là 150m2, nhưng sau đó cả ông Thắng và bà Long đều khai diện tích đất chỉ là 120m2. Tại “Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất” lập ngày 23-5-1993 (có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã Hợp Thành ngày 30-3-1993) thì diện tích đất ông Nông Đức Nghinh chuyển nhượng cho ông Thắng cũng chỉ là 120m2.

    Quá trình quản lý, sử dụng nhà đất ông Thắng kê khai và chính quyền địa phương cũng xác nhận ông Nghinh và ông Thắng thỏa thuận để làm lối đi chung. Thực tế ông Thắng cũng chỉ kê khai nộp thuế đối với diện tích 120m2 đất với số tiền là 44.200 đồng (theo biên lai nộp thuế ngày 12-5-1995).

    Với các chứng cứ trên đây có đủ căn cứ xác định theo các giấy tờ về nhà đất thì tài sản chung của vợ chồng ông Thắng và bà Long là căn cứ trên 120m2, còn 30m2 đất là lối đi chung.

    Tuy nhiên, trên thực tế theo biên bản đo đạc định giá ngày 06-11-2003 thì diện tích đất gắn liền với căn nhà có tranh chấp là 16,4 m. Trong trường hợp này, lẽ ra phải xác định chính xác diện tích đất có tranh chấp từ đó mới xác định đúng giá trị tài sản chung để chia thì mới đảm bảo quyền lợi của các đương sự.

    Tòa án cấp sơ thẩm chỉ xác định giá trị nhà còn lại là 42.000.000 đồng, đồng thời chia cho bà Long, ông Thắng mỗi người một phần diện tích nhà, phân định ranh giới nhà đất, nhưng không xác định chính xác diện tích đất các đương sự được sử dụng và buộc thanh toán chênh lệch giá trị tài sản là không đúng. Tòa án cấp phúc thẩm xác định căn nhà trên 150m2, có giá trị là 390.600.000 đồng (trong đó giá trị nhà là 45.600.000 đồng và giá trị 150m đất là 345.000.000 đồng) để giao cho ông Thắng sở hữu và buộc ông Thắng thanh toán chênh lệch cho bà Long là 143.078.000 đồng cũng không chính xác, gây thiệt hại cho ông Thắng.

    Ngày 03-4-2000 bà Long lập hợp đồng sang nhượng toàn bộ phần nhà đất mà bà được sở hữu, sử dụng theo bản án đã có hiệu lực pháp luật số 05/DSPT ngày 11-3-1998 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn, nên giao dịch giữa bà Long với bà Dĩnh là ngay tình và giữa bà Long với bà Dĩnh không có tranh chấp. Sau khi sang nhượng, bà Dĩnh đã nhận nhà và sữa chữa để sử dụng.

    Khi giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm xác định bà Dĩnh là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là đúng. Tuy nhiên Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét giải quyết về phần nhà đất bà Dĩnh đã được sang nhượng, mà lại giao cho bà Long sở hữu là không giải quyết triệt để vụ án.

    Ông Thắng kháng cáo đề nghị xem xét giải quyết về hợp đồng sang nhượng nhà đất giữa bà Long với bà Dĩnh, thế nhưng Tòa án cấp phúc thẩm lại không xem xét yêu cầu kháng cáo này của ông Thắng là sai lầm, Tòa án cấp phúc thẩm quyết định giao toàn bộ nhà đất có tranh chấp cho ông Thắng và buộc ông Thắng thanh toán giá trị tài sản chênh lệch tài sản cho bà Long, nhưng lại không giải quyết đến hợp đồng sang nhượng nhà đất giữa bà Long với bà Dĩnh là không đảm bảo quyền lợi hợp pháp của bà Dĩnh.

    Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 297 và khoản 2 Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự,

    QUYẾT ĐỊNH:

    1. Hủy bản án dân sự phúc thẩm số 86/DSPT ngày 29-4-2004 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội và bản án dân sự sơ thẩm số 01/DSST ngày 30-6-2003 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn về vụ án “tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn” giữa nguyên đơn là bà Chu Thị Long với bị đơn là ông Hoàng Quang Thắng.

    2. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm lại vụ án theo đúng quy định của pháp luật.

    Lý do bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm bị hủy:

    Các Toà án không xác định chính xác diện tích đất tranh chấp dẫn đến không bảo đảm quyền lợi của các đương sự, Tòa án cấp phúc thẩm cũng bỏ sót yêu cầu kháng cáo của đương sự.

     
    4008 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận