Số hiệu
|
16/2009/DS-GĐT
|
Tiêu đề
|
Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn"
|
Ngày ban hành
|
17/07/2009
|
Cấp xét xử
|
Giám đốc thẩm
|
Lĩnh vực
|
Dân sự
|
……..
Ngày 17 tháng 7 năm 2009, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn” giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Lê Thị Thúy Hà (Lê Thúy Hà), sinh năm 1973;
Bị đơn: Anh An Tuấn Hưng (An Hồ Hưng), sinh năm 1971;
Cùng trú tại: Xóm Vỹ Thượng, xã Hoàng Đồng, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Trần Thị Dung, sinh năm 1967; trú tại: Số 199 khu Dây Thép, thị trấn Đồng Đăng, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn.
NHẬN THẤY:
Tại đơn xin ly hôn ngày 06-4-2005 và quá trình tố tụng nguyên đơn chị Lê Thúy Hà trình bày: Chị kết hôn với anh An Tuấn Hưng ngày 27-3-1998, thủ tục kết hôn đúng quy định của pháp luật. Vợ chồng sống hạnh phúc cho đến đầu năm 2003 thì phát sinh mâu thuẫn, nên chị và anh Hưng sống ly thân từ ngày 20-5-2003 cho đến nay.
Về con chung: Chị Hà và anh Hưng có một con chung là cháu An Lê Huy, sinh 13-12-1998 hiện cháu Huy đang ở với chị, nên chị xin nuôi cháu An Lê Huy và yêu cầu anh Hưng phải góp phí tổn nuôi con chung.
Về tài sản chung: Vợ chồng có 2 thửa đất gồm thửa có diện tích 92m2 (mua của ông Hoàng Văn Phong năm 1999) và thửa có diện tích 466m2 (mua của ông Vy Văn Biên năm 200), vợ chồng hiện đã đổ đất và xây phòng trọ trên cả hai thửa đất trên để cho thuê. Về căn nhà 3 tầng trên diện tích 130m2 tại thôn Vỹ Thượng, xã Hoàng Đồng, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn chị xác nhận trước khi kết hôn với chị, anh Hưng đã có căn nhà tại 293 đường Lê Lợi, phường Vĩnh Trại, sau đó bán đi được 120.000.000 đồng và vợ chồng bù thêm tiền để mua căn nhà này với giá 200.000.000 đồng, sau khi mua vợ chồng xây thêm một tầng. Chị cho rằng trước khi kết hôn với anh Hưng, chị đã phải bỏ ra 60.000.000 đồng để sửa căn nhà cũ của anh Hưng, nên chị Hà đề nghị xác định toàn bộ nhà đất trên là tài sản chung của vợ chồng và yêu cầu chia đôi.
Về chiếc xe máy DREAM II Biển kiểm soát 12F1-4638 mang tên chị, hiện anh Hưng đang sử dụng, chiếc xe trên chị mua và đăng ký trước khi kết hôn với anh Hưng, nên là tài sản riêng của chị. Ngoài ra, vợ chồng còn mượn của anh Đinh Quang Minh chiếc xe YAMAHA biển kiểm soát 12F3-9984 mang tên anh Đinh Quang Minh, hiện chiếc xe này chị đang sử dụng, chị đề nghị trả lại chiếc xe này cho anh Minh.
Về khoản tiền 500.000.000 đồng gửi Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn ngày 12-5-2003, chị Hà cho rằng đây là khoản tiền chị vay để trả khách hàng, nhưng do chưa giao cho khách, nên chị tạm gửi vào ngân hàng, do vậy, số tiền trên không phải là tài sản chung của vợ chồng.
Về khoản tiền bán xe ô tô là 170.000.000 đồng anh Hưng giữ 100.000.000 đồng, chị giữ 70.000.000 đồng, chị cho rằng số tiền chị giữ đã chi tiêu hết vào công việc gia đình, nên chị đề nghị xác định 100.000.000 đồng anh Hưng đang quản lý là tài sản chung để chia.
Về nợ chung: Chị Hà trình bày vợ chồng có vay của chị Trần Thị Dung số tiền 2.000.000.000 đồng, khi vay có viết giấy vay, chị trực tiếp nhận 1.000.000.000 đồng và anh Hưng nhận của chị Dung 1.000.000.000 đồng, nên chị yêu cầu anh Hưng phải có nghĩa vụ trả nợ chung khoản tiền trên.
Ngoài ra, vợ chồng còn có một số tài sản chung là đồ dùng sinh hoạt như ti vi, tủ lạnh; 150.000.000 đồng do nhượng bán cổ phần ở Công ty trách nhiệm hữu hạn sản xuất và thương mại An Sơn hiện do anh Hưng đang quản lý, chị đề nghị chia theo quy định của pháp luật.
Bị đơn anh An Tuấn Hưng trình bày: Đồng ý với lời khai của chị Hà về quan hệ hôn nhân và con chung. Đề nghị Tòa án cho ly hôn, đồng ý để chị Hà nuôi con chung và anh đóng góp phí tổn nuôi con chung mỗi tháng 500.000 đồng.
Về tài sản: Vợ chồng có 2 thửa đất gồm thửa 92m2 (mua của ông Phong) và thửa 466m2 (mua của ông Biên) hiện đã cất nhà trên cả hai thửa đất để cho thuê, đề nghị chia khối tài sản trên theo quy định của pháp luật.
Về căn nhà 3 tầng trên diện tích đất 130m2 tại thửa 422 tờ bản đồ 97 tọa lạc tại thôn Vỹ Thượng, xã Hoàng Đồng, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn, nguồn gốc căn nhà này là của anh, vì trước khi kết hôn với chị Hà, anh đã có căn nhà 293 đường Lê Lợi, phường Vĩnh Trại. Sau khi kết hôn, anh đã bán căn nhà 293 đường Lê Lợi, phường Vĩnh Trại, vợ chồng sử dụng khoản tiền bán nhà trên và thêm tiền để mua căn nhà 3 tầng nêu trên, nên anh Hưng yêu cầu chia cho anh được hưởng bằng trị giá 2/3 căn nhà trên.
Về số tiền 500.000.000 đồng hiện đang gửi tại Ngân hàng nông nghiệp do chị Hà đứng tên, khoản tiền bán xe 170.000.000 đồng anh đã đưa vào két và chị Hà đã sử dụng, các tài sản là đồ dùng sinh hoạt như ti vi, tủ lạnh anh đề nghị xác định là tài sản chung để chia.
Về số tiền 150.000.000 đồng do nhượng bán cổ phần ở Công ty trách nhiệm hữu hạn sản xuất và thương mại An Sơn anh đã đầu tư kinh doanh nay không còn, nên không đồng ý đưa vào khối tài sản chung để chia.
Về số tiền 2 tỷ đồng vay của chị Dung, anh không thừa nhận vì chị Hà vay riêng, anh không biết và không sử dụng khoản tiền này, nên nếu có nợ thì là nợ riêng của chị Hà.
Về chiếc xe máy DREAM II Biển kiểm soát 12F1-4638 mang tên chị Hà, hiện anh đang sử dụng là tài sản riêng của chị Hà. Còn chiếc xe YAMAHA Biển kiểm soát 12F3-9984 mang tên anh Đinh Quang Minh anh không có ý kiến gì và không đề nghị Tòa án giải quyết.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị Trần Thị Dung trình bày: Chị chơi thân với vợ chồng anh Hưng, chị Hà, do cần tiền nên chị đã cho vợ chồng chị Hà vay 2.000.000.000 đồng làm hai lần, khi giao tiền thì chị Hà là người trực tiếp nhận tiền một lần với số tiền là 1.000.000.000 đồng, còn một lần anh Hưng trực tiếp nhận 1.000.000.000 đồng. Việc vay tiền chỉ có chị Hà là người ký vào giấy vay nhưng anh Hưng biết và có nhận 1.000.000.000 đồng. Nay anh Hưng, chị Hà ly hôn, chị yêu cầu vợ chồng anh Hưng, chị Hà phải có trách nhiệm cùng trả chị khoản nợ trên.
Tại bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số26/2005/HNGĐ-ST ngày 31-8-2005 của Toà án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn quyết định:
1. Về tình cảm: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Lê Thuý Hà và anh An Tuấn Hưng.
2. Về con chung: Giao cháu An Lê Huy sinh ngày 13-12-1998 cho chị Lê Thuý Hà chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục tới tuổi trưởng thành. Anh An Tuấn Hưng phải đóng góp phí tổn nuôi con mỗi tháng 500.000 đồng đến khi cháu tới tuổi trưởng thành là 18 tuổi.
Anh Hưng có quyền đi lại thăm nom con chung không ai được phép ngăn cản.
3. Về tài sản:
- Về tài sản riêng: Chị Lê Thị Thuý Hà được sở hữu chiếc xe máy Dream II biển kiểm soát 12F1- 4638.
- Xử chia tài sản chung giữa chị Hà và anh Hưng:
+ Chị Lê Thị Thuý Hà được sở hữu sử dụng toàn bộ các đồ dùng sinh hoạt trong gia đình bao gồm: 01 bộ dàn điện tử; 01 bộ bàn ghế gỗ chắc; 01 tủ kệ ti vi; 01 tủ rượu; 01 gương treo tường; 01 tivi SONY; 01 tivi LG (Trị giá tài sản là 39.300.000 đồng) và được sở hữu nhà đất 130m2 tại thôn Vỹ Thượng, xã Hoàng Đồng, thành phố Lạng Sơn. Trên đất có nhà loại II, ba tầng (Khu nhà và đất chị Hà được sở hữu nằm trên thửa đất 422, tờ bản đồ 97 Bản đồ địa chính xã Hoàng Đồng, thành phố Lạng Sơn) trị giá 455.000.000đồng. Tổng cộng là 797.998.000 đồng.
+ Anh An Tuấn Hưng được sở hữu sử dụng nhà đất với diện tích 466m2 đất vườn tại thửa đất số 522 tờ bản đồ số 15, bản đồ giải thửa năm 1988(hiện nay là thửa 345 tờ bản đồ 97 bản đồ đo vẽ năm 2001) và thửa đất 346 tờ bản đồ 97 có diện tích 92m2 (trên hai thửa đất này có xây dựng 14 phòng trọ cho thuê) hiện có giá trị là 1.041.000.000 đồng và được sở hữu 250.000.000 đồng tiền mặt hiện anh đang quản lý.
Anh An Tuấn Hưng phải bù chênh lệch trị giá tài sản cho chị Lê Thị Thuý Hà là 246.501.000 đồng.
Về nợ: Chị Lê Thị Thuý Hà và anh An Tuấn Hưng mỗi người phải có trách nhiệm trả nợ cho chị Trần Thị Dung (Trú tại: số 199 Khu Dây Thép, thị trấn Đồng Đăng, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn) 1.000.000.000 đồng (một tỉ đồng) trong thời hạn 02 tháng kể từ ngày 31-8-2005 (không phải trả lãi).
Ngoài ra, Tòa án sơ thẩm còn quyết định về án phí, nghĩa vụ do chậm thi hành án và tuyên quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 05-9-2005, anh Hưng kháng cáo đề nghị xem xét giải quyết lại về việc chia tài sản chung và nợ chung.
Tại bản án hôn nhân và gia đình phúc thẩm số22/2006/HNGĐ-PT ngày 26-5-2006, Toà án nhân dân tỉnh Lạng Sơn quyết định sửa bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số26/2005/HNGĐ-ST ngày 03-8-2005 của Toà án nhân dân thành phố Lạng Sơn như sau:
1- Về quan hệ vợ chồng: Xử công nhận sự thỏa thuận ly hôn giữa chị Lê Thuý Hà và anh An Tuấn Hưng.
2- Về con chung: Giao cháu An Lê Huy sinh ngày 13-12-1998 cho chị Lê Thuý Hà chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh An Tuấn Hưng phải cấp dưỡng nuôi con chung cho chị Hà mỗi tháng 500.000đồng (năm trăm nghìn đồng) cho đến khi cháu đến tuổi trưởng thành (18 tuổi) thời hạn tính từ tháng 8 năm 2005.
Anh Hưng có quyền đi lại thăm nom con chung không ai được quyền ngăn cản.
3- Về phần tài sản:
+ Tài sản riêng: Chị Lê Thuý Hà được sở hữu chiếc xe máy Dream II biển kiểm soát 12F1- 4638 (hiện nay anh Hưng đang quản lý).
+ Xử chia tài sản chung giữa chị Hà và anh Hưng như sau:
* Chị Lê Thị Thuý Hà được sở hữu toàn bộ đồ dùng sinh hoạt trong gia đình gồm: 01 bộ dàn điện tử, 01 bộ bàn ghế gỗ chắc, 01 tủ kệ ti vi, 01 tủ rượu, 01 gương treo tường, 01 tivi SONY, 01tivi LG (trị giá tài sản là 39.300.000 đồng) và được sử dụng sở hữu ngôi nhà 3 tầng trên diện tích đất 130m2 tại thửa số 422, tờ bản đồ số 97, trị giá nhà đất là 758.998.055 đồng.
- 500.000.000đồng (năm trăm triệu đồng) tiền mặt gửi tiết kiệm chị Hà đã rút về.
- 70.000.000 đồng tiền bán xe ô tô cho anh Hải (chị Hà giữ).
- Chị Hà phải có trách nhiệm thanh toán chênh lệch về tài sản cho anh Hưng tổng cộng số tiền là 38.649.028 đồng (ba mươi tám triệu sáu trăm bốn mươi chín ngàn không trăm hai mươi tám đồng).
* Anh An Tuấn Hưng được sở hữu sử dụng nhà đất tại thửa số 345 tờ bản đồ 97 diện tích đất 466 m2 và nhà đất tại thửa số 346 tờ bản đồ 97 diện tích 92m2 (có 14 phòng trọ xây trên 2 thửa đất trên) trị giá là 1.041.000.000 đồng và được sở hữu tiền mặt 250 triệu đồng hiện anh đang quản lý. Và được nhận tiền chênh lệch trị giá tài sản do chị Hà thanh toán là 38.469.028 đồng.
- Về khoản nợ vay:
Xử huỷ khoản buộc chị Hà, anh Hưng trả nợ cho chị Dung mỗi người 01 tỷ đồng vì chưa có cơ sở vững chắc và tách ra để giải quyết bằng vụ kiện khác nếu đương sự có yêu cầu.
Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí và nghĩa vụ do chậm thi hành án.
Sau khi xét xử phúc thẩm chị Hà có đơn khiếu nại.
Tại Quyết định số24/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 26-3-2007, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số22/2006/HNGĐ-PT ngày 26-5-2006 của Toà án nhân dân tỉnh Lạng Sơn; đề nghị Hội đồng xét xử giám đốc thẩm Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao huỷ phần phân chia tài sản chung và nợ giữa chị Hà và anh Hưng tại bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm nêu trên; giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm lại phần tài sản chung và nợ chung.
Tại Quyết định giám đốc thẩm số147/2007/DS-GĐT ngày 18-6-2007, Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao quyết định:
- Huỷ bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 26/2005/STDS ngày 31-8-2005 của Toà án nhân dân thành phố Lạng Sơn và bản án hôn nhân và gia đình phúc thẩm số 22/2006/PTDS ngày 26-5-2006 của Toà án nhân dân tỉnh Lạng Sơn, xét xử việc ly hôn giữa chị Lê Thị Thuý Hà và anh An Tuấn Hưng.
- Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm.
Ngày 23-8-2007 anh Hưng khiếu nại cho rằng: Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao huỷ toàn bộ bản án sơ thẩm, bản án phúc thẩm là không đúng vì Viện trưởng Viện kiểm sát tối cao chỉ kháng nghị phần phân chia tài sản chung và nợ của bản án phúc thẩm, đề nghị Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy phần quyết định về phân chia tài sản và nợ tại bản án phúc thẩm nêu trên và tại bản án sơ thẩm số26/2005/HNGĐ-ST ngày 31-8-2005 của Toà án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm lại phần chia tài sản chung và nợ.
Ngày 08-8-2007 Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn thụ lý lại vụ án “Xin ly hôn” giữa nguyên đơn là chị Lê Thúy Hà với bị đơn là anh An Tuấn Hưng.
Tại Thông báo số78/TB-TLVA ngày 10-8-2007, Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn về việc thụ lý giải quyết toàn bộ vụ án.
Ngày 11-9-2007, Hội đồng xét xử giám đốc thẩm Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao có Thông báo số732/TB-TA sửa chữa, bổ sung Quyết định giám đốc thẩm số147/2007/DS-GĐT ngày 18-6-2007 như sau:
“cần hủy phần chia tài sản của bản án sơ thẩm và phúc thẩm…” “ Huỷ phần chia tài sản của bản án sơ thẩm hôn nhân và gia đình số 26/2005/STDS ngày 31-8-2005 của Toà án nhân dân thành phố Lạng Sơn và phần chia tài sản của bản án phúc thẩm hôn nhân và gia đình...”.
Tại Thông báo số3548/TB-TA ngày 11-10-2007, Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã sửa chữa, bổ sung Thông báo về việc thụ lý vụ án số78/TB-TLVA ngày 10-8-2007 như sau:
“Về tình cảm và về con chung: Bản án sơ thẩm số 26/2005/STDS ngày 31-8-2005 và bản án phúc thẩm số22/2006/HNGĐ-PT ngày 26-5-2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn đã có hiệu lực pháp luật. Về tài sản chung và nợ yêu cầu Tòa án phân chia”, nên Tòa án chỉ giải quyết về việc chia tài sản chung và nợ.
Ngày 20-10-2007, anh Hưng tiếp tục khiếu nại cho rằng Quyết định giám đốc thẩm số147/2007/DS-GĐT ngày 18-6-2007 của Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao là trái pháp luật; Thông báo sửa chữa bổ sung số732/TB-TA ngày 11-9-2007 vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng dân sự. Đề nghị hủy Quyết định giám đốc thẩm số147/2007/DS-GĐT ngày 18-6-2007 của Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao.
Tại Quyết định số91/2009/KN-DS ngày 24-3-2009, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị Quyết định giám đốc thẩm số147/2007/DS-GĐT ngày 18-6-2007 của Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm huỷ Quyết định giám đốc thẩm nêu trên; giao hồ sơ vụ án cho Toà dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật với nhận định:
- Chị Lê Thị Thúy Hà và anh An Tuấn Hưng là vợ chồng, đăng ký kết hôn ngày 27-3-1998 tại Ủy ban nhân dân phường Vĩnh Trại, thị xã Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn. Năm 2005, chị Hà khởi kiện xin ly hôn anh Hưng đã được Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn xét xử sơ thẩm (bản án số26/2005/HNGĐ-ST ngày 31-8-2005) và do anh Hưng kháng cáo, nên Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn đã xét xử phúc thẩm (bản án số22/2006/HNGĐ-PT ngày 26-5-2006). Sau khi xét xử phúc thẩm thì chị Hà, anh Hưng không khiếu nại về phần quyết định của bản án phúc thẩm đã giải quyết về quan hệ hôn nhân và nuôi con chung mà chị Hà chỉ khiếu nại về phần chia tài sản chung và nợ. Tại Quyết định số24/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 26-3-2007, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chỉ kháng nghị về phần phân chia tài sản và nợ, đồng thời đề nghị Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy các quyết định về tài sản và nợ tại bản án sơ thẩm và phúc thẩm nêu trên.
- Do đó, quyết định của bản án phúc thẩm về quan hệ hôn nhân và nuôi con có hiệu lực pháp luật. Trong thực tế, quan hệ về chia tài sản khi ly hôn không có liên quan với quan hệ hôn nhân và nuôi con chung, đồng thời Tòa án cấp sơ thẩm, cấp phúc thẩm đã giải quyết có lý, có tình về hai quan hệ này. Tại phiên tòa giám đốc thẩm, Hội đồng xét xử giám đốc thẩm thống nhất chấp nhận Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hủy phần tài sản tại bản án sơ thẩm và phúc thẩm nêu trên; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn xét xử sơ thẩm lại phần tài sản. Nhưng tại quyết định giám đốc thẩm nêu trên Hội đồng xét xử giám đốc thẩm Tòa dân sự Toà án nhân dân tối cao lại quyết định hủy toàn bộ bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm là vi phạm nghiêm trọng Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự, ảnh hưởng đến quyền lợi của các đương sự. Mặt khác, sau khi xét xử giám đốc thẩm, Hội đồng xét xử giám đốc thẩm ban hành Thông báo số732/TB-TA ngày 11-9-2007 về việc sửa chữa, bổ sung quyết định giám đốc thẩm nêu trên, tuy nhiên, nội dung sửa chữa, bổ sung của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm Tòa dân sự lại trái với quy định tại Điều 240 Bộ luật tố tụng dân sự.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; hủy Quyết định giám đốc thẩm số147/2007/DS-GĐT ngày 18-6-2007 của Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao; hủy bản án hôn nhân và gia đình phúc thẩm số22/2006/HNGĐ-PT ngày 26-5-2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn và hủy Quyết định về chia tài sản và nợ của bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số26/2005/HNGĐ-ST ngày 31-8-2005 của Toà án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn; giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm lại về phần chia tài sản và nợ giữa chị Hà với anh Hưng.
XÉT THẤY:
Chị Lê Thị Thúy Hà và anh An Tuấn Hưng kết hôn hợp pháp ngày 27-3-1998. Do có mâu thuẫn trầm trọng trong cuộc sống, nên ngày 06-4-2005 chị Hà xin ly hôn với anh Hưng, xin được nuôi con chung và đề nghị chia tài sản chung và giải quyết về nợ chung. Anh Hưng đồng ý ly hôn, giao con chung cho chị Hà nuôi và đề nghị giải quyết về tài sản chung và nợ. Tại bản án dân sự sơ thẩm số26/2005/HNGĐ-ST ngày 31-8-2005 của Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn đã quyết định: "Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Lê Thúy Hà với anh An Tuấn Hưng"; "Giao cháu An Lê Huy sinh ngày 13-12-1998 cho chị Lê Thuý Hà chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu tới tuổi trưởng thành. Anh An Tuấn Hưng phải đóng góp phí tổn nuôi con chung mỗi tháng 500.000 đồng đến khi con chung trưởng thành". Đồng thời Tòa án cấp sơ thẩm quyết định chia tài sản chung và xác định nghĩa vụ trả nợ.
Ngày 05-9-2005 anh An Tuấn Hưng có đơn kháng cáo về việc chia tài sản chung và nợ chung. Như vậy, quyết định về hôn nhân và nuôi con chung của bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, khi xét xử cấp phúc thẩm lại quyết định cả về quan hệ hôn nhân và nuôi con chung là đã vượt quá phạm vi xét xử phúc thẩm được quy định tại Điều 263 Bộ luật tố tụng dân sự.
Mặt khác, quá trình giải quyết vụ án chị Hà thừa nhận vợ chồng có vay của chị Dung 2.000.000.000 đồng và cho rằng đây là nợ chung, nên yêu cầu buộc anh Hưng có nghĩa vụ trả nợ chung, trong khi đó anh Hưng thừa nhận có việc chị Hà vay của chị Dung 2.000.000.000 đồng, nhưng anh cho rằng là nợ riêng của chị Hà, nên không đồng ý trả nợ chung, còn chị Dung yêu cầu chị Hà, anh Hưng trả nợ chung. Trong thực tế, khoản nợ trên có liên quan đến việc phân chia tài sản và trả nợ của các đương sự nên phải được xem xét giải quyết trong cùng vụ án thì mới đảm bảo việc thi hành án. Do đó, việc Tòa án cấp phúc thẩm không giải quyết trong cùng vụ án mà tách khoản nợ trên để giải quyết thành vụ án khác khi các đương sư có yêu cầu là không giải quyết triệt để vụ án và không đúng với quy định của pháp luật.
Trong thực tế, tại kháng nghị số24/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 26-3-2007, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chỉ kháng nghị đối với quyết định chia tài sản chung và nợ; đề nghị Tòa án cấp giám đốc thẩm hủy các quyết định của bản án sơ thẩm và phúc thẩm về phần tài sản và nợ; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại phần phân chia tài sản và nợ. Nhưng tại Quyết định giám đốc thẩm số147/2007/DS-GĐT ngày 18-6-2007, Hội đồng xét xử giám đốc thẩm Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao lại quyết định hủy toàn bộ bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm là vi phạm nghiêm trọng Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự, ảnh hưởng đến quyền lợi của các đương sự.
Mặt khác, sau khi có Quyết định giám đốc thẩm nêu trên, cấp sơ thẩm thông báo thụ lý giải quyết lại toàn bộ vụ án (trong đó có cả nội dung về quan hệ hôn nhân, nuôi con chung đã có hiệu lực pháp luật) là vi phạm thủ tục tố tụng dân sự.
Tại Thông báo số732/TB-TA ngày 11-9-2007 Hội đồng xét xử giám đốc thẩm Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao sửa chữa, bổ sung Quyết định giám đốc thẩm nêu trên, nhưng thông báo này lại không đúng với quy định tại Điều 240 Bộ luật tố tụng dân sự. Trên cơ sở Thông báo nêu trên của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án cấp sơ thẩm ban hành thông báo sửa chữa, bổ sung về việc thông báo thụ lý vụ án cũng không đúng quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên, căn cứ khoản 3 Điều 297, khoản 2 Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Hủy Quyết định giám đốc thẩm số147/2007/DS-GĐT ngày 18-6-2007 và Thông báo số732/TB-TA ngày 11-9-2007 của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao; hủy bản án hôn nhân và gia đình phúc thẩm số22/2006/HNGĐ-PT ngày 26-5-2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn; hủy quyết định về chia tài sản chung và nợ của bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số26/2005/HNGĐ-ST ngày 31-8-2005 của Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn về vụ án “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn” giữa nguyên đơn là chị Lê Thị Thúy Hà với bị đơn là anh An Tuấn Hưng; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị Trần Thị Dung.
2. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm lại về việc chia tài sản chung và nợ theo đúng quy định của pháp luật.
Lý do bản vụ án cần được xét xử sơ thẩm lại về việc chia tài sản:
Hai bên đương sự đang tranh chấp về một khoản nợ, khoản nợ này có liên quan đến việc chia tài sản và trả nợ của các đương sự, cần phải được giải quyết trong cùng vụ án, nhưng Tòa án lại tách ra để giải quyết thành vụ án khác là không đúng pháp luật. Vụ án có nhiều sai sót về thủ tục tố tụng.