Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Kiện đòi tài sản"

Chủ đề   RSS   
  • #265456 30/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3536)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4353 lần


    Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Kiện đòi tài sản"

    Số hiệu

    11/2010/DS-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Kiện đòi tài sản"

    Ngày ban hành

    02/04/2010

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Dân sự

     

    ….

    Ngày 02 tháng 04 năm 2010, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự “ Kiện đòi tài sản” giữa các đương sự:

    Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Lang sinh năm 1960; trú tại đường Thalbruggweg 1 -4710 Balshal, Thụy Sĩ; tạm trú tại 348 Phạm Hữu Lầu, thị xã Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp; ủy quyền cho ông Đặng Hồng Đức, trú tại số 19, đường Trương Định, phường 1, thị xã Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp đại diện.

    Bị đơn: Bà Trần Thị Bảy sinh năm 1955 ;

    Ông Hình Phước Thanh sinh năm 1953;

    Đều trú tại ấp Long Thành A, xã Long Hậu, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp ( bà Trần Thị Bảy ủy quyền cho ông Hình Phước Thanh đại diện).

    Người có quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan:

    Chị Hình Thúy Kiều sinh năm 1981;

    Anh Huỳnh Minh Như Thức sinh năm 1978;

     

    NHẬN THẤY:

    Tại đơn khởi kiện ngày 30-8-2004 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Lang trình bày:

    - Bà và bà Trần Thị Bảy có quan hệ họ hàng (mẹ bà và mẹ bà Bảy là hai chị em ruột). Từ năm 1995 đến khoảng năm 2003, bà đã nhiều lần trực tiếp đưa tiền (ngoại tệ) và vàng hoặc từ nước ngoài chuyển tiền về Việt Nam nhờ bà Bảy nhận chuyển nhượng đất và đứng tên giùm cho bà các lô đất như sau:

     + Tháng 7-1995, bà đưa cho bà Bảy 2.000 USD để nhận chuyển nhượng  4 công đất tại ấp Vĩnh Hưng, xã Vĩnh Thạnh, huyện Lấp Vò.

    + Tháng 4-1996, bà gửi cho bà Bảy 5.000 Pbrăng Thụy Sĩ để nhận chuyển nhượng 2.760m2 đất tại ấp Long Thành A) đã Long Hậu, huyện Lai Vung.

    + Tháng 9 – 1996, bà nhờ bà Bảy nhận chuyển nhượng 2,5 công ruộng ( giáp ranh 4 công đất nêu trên), giá 4 lượng vàng.

    + Trong năm 1996 và năm 1997, bà nhờ bà Bảy nhận chuyển nhượng hai lô đất giáp ranh nhau: một lô 846m2 và một lô 656 m2 tại ấp Long Thành A, xã Long Hậu, huyện Lai Vung, với tổng giá 7,5 lượng vàng ( hai lô này có diện tích 1.502m2, đo thực tế là 1.564,6m2).

    - Bà còn gửi về 1.500USD và 7.000 Phrăng Thụy Sĩ  để bà Bảy san lấp mặt bằng 1.502m2 đất; gửi về 3.400 Phrăng Thụy Sĩ để bà Bảy làm hàng rào xung quanh đất, xin giấy phép xây dựng nhà nhưng bà Bảy không thực hiện; bà đã thuê người làm hàng rào bao quanh đất này.

    Như vậy, bà đã nhờ Bảy nhận chuyển nhượng và đứng tên giùm 10.206m2 đất ( gồm 5.944m2 đất ruộng; 4.246m2 đất vườn và đất thổ cư). Ông Thanh, bà Bảy có lập tờ cam kết ( ngày 15-12-1998) nêu rõ 10.206m2 đất là của bà; bà Bảy chỉ đứng tên giùm; khi nào bà cần lấy lại đất thì ông Thanh, bà Bảy sẽ trả lại cho bà vô điều kiện.

    Từ năm 1997 đến năm 2000, bà cho ông Thanh, bà Bảy mượn 40 lượng vàng ( vay 3 lần), nhưng chỉ tính lãi 20 lượng vàng; còn 20 lượng thì bà Bảy mua giùm bà 2 nền nhà ở chợ Cái Tắc vào năm 2001, nên vợ chồng bà Bảy chỉ còn nợ bà 20 lượng vàng. Năm 2001, bà đồng ý cho bà Bảy cất 1 căn nhà tạm trên phần đất thổ cư để làm quán bán giải khát, nhưng bà Bảy lại cất nhà cấp 4. Bà và bà Bảy thỏa thuận rằng : bà lấy căn nhà cấp 4 nói trên; còn bà Bảy lấy một trong hai nền nhà tại chợ Cái Tắc; bà Bảy sang tên 10.206m2 đất nói trên cho ông Nguyễn Tấn Thành (em chồng bà ). Sau đó, vợ chồng bà Bảy bán một nền nhà của bà ( còn lại) ở chợ Cái Tắc và đã đưa tiền cho bà. Còn thỏa thuận nói trên thì vợ chồng bà Bảy không thực hiện.

    Bà yêu cầu bà Bảy và ông Thanh sang tên 10.206m2 đất cho ông Nguyễn Tấn Thành; trả cho bà 20 lượng vàng và lãi từ năm 2000 đến nay. Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 31-01-2005, bà Lang còn yêu cầu bà Bảy và ông Thanh trả 3.400 Phrăng Thụy Sĩ, yêu cầu xem xét phần đất khoảng 800m2 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ( liền kề với 1.502m2 đất nói trên) và số tiền 21.000.000 đồng do bà bỏ ra để làm hàng rào xung quanh 1.502m2 và khoảng 800m2 nói trên

    Bị đơn là bà Trần Thị Bảy và ông H ình Phước Thanh trình bày:

     Khoảng tháng 7-1996, bà Nguyễn Thị Lang và ông Nguyễn Minh Trang (em ruột bà Lang) đã nhiều lần đưa tiền cho bà Bảy với tổng số tiền là 5.000 USD. Khi đưa tiền bà Lang và ông Trang nói là cho, không làm giấy tờ.

     Ông bà dùng số tiền nêu trên nhận chuyển nhượng 5 .944m2 đất ruộng (năm 1996 và năm 1997) tại ấp Vĩnh Hưng, xã Vĩnh Thạnh, huyện Lấp Vò của bà Hình Thị Trinh, ông Trần Văn Út, ông Trương Văn Hảo. Năm 1998 hộ bà Trần Thị Bảy được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, diện tích 5.944m2 đất (gồm các thửa: 581, 575, 578 và 538). Năm 2003 ông bà đã chuyển nhượng cho ông Phạm Ngọc Phương thửa 538 và thửa 578; năm 2004 chuyển nhượng cho bà Lê Thị Hạnh thửa 575 (những người nhận chuyển nhượng đất nói trên đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất); chi còn thửa 581, diện tích 905m2.

    Tháng 5-1996, ông bà nhận chuyển nhượng 2.760m2 đất vườn của ông Nguyễn Văn Bảo, giá 50 chỉ vàng; năm 1996 bà Bảy được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, diện tích 2.760m2. Tháng 10-1996, ông bà nhận chuyển nhượng 846m2 đất lúa của bà Nguyễn Thị Bông, giá 47 chỉ vàng, tháng 9-1997 ông bà nhận chuyển nhượng thêm 656m2 đất lúa của ông Võ Phước Đức, giá 25 chỉ vàng (năm 1997, bà Bảy được đứng tên hai phần đất này tại mục những thay đôi sau khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên). Tại biên bản lấy lời khai ngày 27-12-2004, ông Thanh khai: ông có nhận tiền của bà Lang mua nền nhà ở chợ Cái Tắc, khi bà Lang về thì ông đã đã bàn giao lại nền nhà này cho bà Lang; bà Lang bán nền nhà này thì ông không biết.

    Từ khi nhận chuyển nhượng đất, ông bà đã canh tác, đầu tu, cải tạo và san lấp (chi phí san lấp đất vườn và đất thổ cư là 126.128.000 đồng) thì mới có thửa đất như hiện nay; bà Lang không đưa tiền nhờ ông bà nhận chuyển nhượng đất và đứng tên giùm, nên ông bà không đồng ý trả đất theo yêu cầu của bà Lang và không đồng ý trả tiền giá trị quyền sử dụng đất cho bà Lang mà chỉ đồng ý trả lại 40 lượng vàng; do bà Lang chỉ đòi 20 lượng vàng nên ông bà trả lại 20 lượng, nhưng phải cân trừ số tiền 100.000.000 đồng mà ông bà đã trả cho bà Lang.

    Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị Hình Thúy Kiều trình bày: căn nhà cấp 4 trên một phần diện tích l.502m2 đất (đo thực tế là l.564,6m2) nói trên do chị chi tiền xây dựng hết khoảng 60.000.000 đồng vào năm 2000; chị không đồng ý giao lại nhà này cho bà Lang.

    Người có quyền lơi, nghĩa vụ liên quan là anh Huỳnh Minh Như Thức trình bày: năm 1998, bà Bảy chuyển nhượng cho anh một phần đất rộng 20m (giáp quốc lộ 80), dài 40m giáp hàng rào chợ Cái Tắc (có lúc khai chiều dài 43,4m giáp hàng rào chợ Cái Tắc), giá 5 .000.000 đồng (có làm giấy viết tay, chưa hoàn tất thủ tục chuyển nhượng). Anh không đồng ý giao lại đất này cho bà Lang.

    Tại bản án dân sự sơ thẩm số 03/DSST ngày 03/02/2005, Toà án nhân dân tỉnh Đồng Tháp quyết định

    Tuyên xử :

    Bác yêu cầu của bà Nguyễn Thị Lang yêu cầu ông Hình Phước Thanh (Ba Lạc )và bà Trần Thị Bảy phải trả lại diện tích đất và trả lãi suất vàng.

    - Chấp nhận yêu cầu cua bà Nguyễn Thị Lang đòi ông Hình Phước Thanh và bà Trần Thị Bảy trả giá trị đất, trả 200 chỉ vàng 24kra, trả tiền 39. 780. 000 đồng

    - Bác yêu cầu cha ông Hình Phước Thanh và bà Trần Thị Bảy không đồng ý trả giá trị đất, trả tiền 39. 780. 000 đồng, cho đồng ý trả 200 chỉ vàng 24kra 9, 5 tuổi cho bà Lang.

    Công nhận thoả thuận tự nguyện giữa bà Nguyễn Thị Lang và ông Hình Phước Thanh (Ba Lạc), bà Trần Thị Bảy đối với 200 chỉ vàng 24kra 9,5 tuôỉ. Bà Nguyễn Thị Lang yêu cầu ông Thanh và bà Bảy trả 200 chỉ vàng 24kra 9, 5 tuổi ,ông Thanh và bà Bảy đồng ý trả cho bà Lang 200 chỉ vàng 24kra 9.5 tuổi, trả bằng hiện vật hoặc bằng tiền tương đương với thời điểm thi hành án.

    Tiếp tục giao cho hộ bà Trần Thị Bảy đựơc tiếp tục sử dụng diện tích đất 1502m2 diện tích 2.760m2 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 20/7/1996, cấp bổ sung tháng 10/1996 và tháng 9/1997, đã được đo đạc cụ thể theo sơ đồ và biên bản ngày 17/11/2004, các phần đất trên tọa lạc tại ấp Long Thành A, xã Long Hậu, huyện Lai Vung và phần rất ruộng còn lại ở thừa 581. diện tích là 905m2 đất lúa, đo đạc thực tế theo sơ đồ và biên bản ngày 18/11/2004 diện tích là 604,5m2) đất tọa lạc tại xã Vĩnh Thạnh, huyện Lấp Vò đã đựơc cấp giây chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 21/11/1998, các phần đất do bà Trần Thị Bảy đứng tên quyền sử dụng đất.

    Buộc bà Trần Thị Bảy và ông Hình Phước Thanh (Ba gạc) có nghiã vụ liên đới trả tiền giá tri đất cho bà Nguyễn Thị Lang 823.174.450 đồng và số tiền bà Lang đưa cho bà Bảy và ông Thanh là 39. 780. 000 đồng. (tổng cộng hai khoản là 862.954.450 đồng).

    Yêu cầu của bà Lang đối với số tiền làm hàng rào 21.000.000 đồng tách ra khi nào có đơn khởi kiện sẽ giải quyết thành một vụ kiện khác.

    - Phần diện tích đất chưa đựơc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tách ra khi nào cơ quan có thẩm quyền định vị và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nếu có phát sinh tranh chấp sẽ giải quyết thành một vụ kiện khác.

     - Phong tỏa tải sản của bà Trần Thị Bảy và ông Hình Phước Thanh đối với các phần đất và nhà để đảm bảo thi hành án.

    Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về tiền chi phí đo đạc, lãi chậm trả nếu chậm thi hành án và án phí.

    Ngày 4-2-2005, bà Nguyễn Thị Lang có đơn kháng cáo yêu cầu được tính lãi vàng; yêu cầu xem xét phần đất giáp chợ Cái Tắc và số tiền bà làm hàng rào (21.000.000 đồng).

    Ngày 15-2-2005, ngày 21-02-2005 và đơn không đề ngày tháng 3-2005, ông Hình Phước Thanh và bà Nguyễn Thị Bảy kháng cáo và bổ sung đơn kháng cáo với nội dung: Tòa án cấp sơ thẩm buộc ông bà trả giá trị đất cho bà Lang là không có căn cứ; ông bà vay vàng của bà Lang thì trả vàng và lãi, không đồng ý trả bà Lang 39.780.000 đồng.

    Tại bản án dân sự phúc thẩm số 204/ĐSPT ngày 9/6/2005, Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định

    1- Chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị Lang.

    2- Công nhận sự tự nguyện cha ông Hình Phước Thanh bà Trần Thị Bảy trả cho bà Nguyễn Thị Lang 20( hai mươi) lượng vàng 24k loại 95% nợ vốn.

    - Buộc ông Thanh bà Bảy trả cho bà Lang 45. 000. 000đ (Bốn mươi lăm triệu đồng) tiền lãi .

    3- Buộc bà Bảy ông Thanh có trách nhiệm trả cho bà Lang số tiền 39. 780. 000đ (Ba mươi chín triệu, bảy trăm tám mươi ngàn đồng) tương đương 3400 Phrăng Thụy Sĩ.

    4- Các đương sự thi hành việc cả nợ (Điều 2;3) 01lần ngay sau khi bản án phát sinh hiệu lực pháp luật.

    Kể từ ngày nguyên đơn có đơn đề nghị thi hành án, ông Thanh bà Bảy chậm trả, hàng tháng còn phải trả tiền lãi, theo mức lãi nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án.

     5- Huỷ phần bản án dân sự sơ thẩm số 03/DSST ngày 03-2-2005 của Toà án nhân dân tỉnh Đồng Tháp về việc bà Lang yêu cầu bà Bảy ông Thanh trả lại 5.944m2 đất ruộng và 4.262 m2 đất vườn.

    6 - Giao hồ sơ vụ án về Toà án nhân dân tỉnh Đồng Tháp điều tra xét xử lại sơ thẩm theo thủ tục chung.

    Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn có quyết định về án phí.

    Tại bản án sơ thẩm số 15/2005/DSST ngày 29/12/2005, Toà án nhân dân tỉnh Đồng Tháp quyết định

    Áp dụng Điều 264, 137 của Bộ luật Dân sự và khoản 1. 2 Điều 131; Điều 128 của Bộ luật Tố tụng Dân sự có hiệu tức ngày 01/01/2005.

    Tuyên xử.

    Chấp nhận một phần yêu cầu của bà Nguyễn Thị Lang được nhận lại tiền đầu tư vào đất ruộng vườn, thổ cư, tiền san lấp, tiền căn nhà cấp 4, tiền làm hàng rào là 395. 093. 067đ. Trong đó:

    + Buộc ông Hình Phước Thanh và bà Trần Thị Bảy phải giao trả số tiền chuyển nhượng diện tích đất ruộng là 5.039m2 bằng số tiền 68.026.500đ cho bà Nguyễn Thị Lang.

    + Buộc ông Hình Phước Thanh, bà Trần Thị Bảy, anh Huỳnh Minh Như Thức, chị Hình Thúy Kiều phải có trách nhiệm giao lại các phần đất và nhà cho Cơ quan Thi hành án tỉnh Đồng Tháp quản lý và phát mãi bán theo quy định của pháp luật. Các phần đất và nhà có vị trí như sau:

    * Đất ruộng thửa 581 diện tích 905m2 do lạc thực tế là 604, 5m2 tọa lạc tại ấp Vĩnh Hưng, xã Vĩnh Thạnh, huyện Lấp Vò do bà Trần Thị Bảy đứng tên quyền sử dụng đất ngày 21-1- 1998 (Theo cơ đồ và biên bản đo đạc ngày 18/11/2004)

     * Đất thổ cư và (LNK) ở hai thửa số 1323 và số 3 tờ bản đồ số 5 diện tích 1.502m2 (thửa mới là số 3 và số 4) diện tích đo đạc thực tế là 1.564, 6m2 (tính đến mí lộ) tọa lạc tại ấp Long Hậu, huyện Lai Vung.

    Chiều ngang mặt tiền giáp Quốc lộ 80 là 29, 7m.

    Chiều ngang sau hậu áp sông Cái Tắt là 11,6m; có một đoạn giáp hàng rào là 15.5m.

    Chiều dài một cạnh giáp hàng Tào giáp bà Bông, ông Kiết một đoạn là 30m, một đoạn 29.5m.

    Chiều dài một cạnh giáp phần rất còn lại chưa cấp quyền sử dụng đất hai đoạn: một đoạn là 40,3m, một đoạn là 27,3m.

    * Đất cây là năm ở thửa 85 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 2. 760m2 đo lạc thực tế 2. 535, 75m2.

    Ngang giáp Quốc lộ 80 là 18,3m.

    Ngang sau hậu giáp mương là 25, 8m.

    Dài là 115m.

    Trên phần đất này có 27 cây xoài là trồng 7 năm, cây xoài nhỏ trồng 03 năm, 02 cây xoài nhỏ trồng 02 năm (Phần đất này toạ lạc tại xã Long Hậu, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp

    * Phần diện tích đất chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở thửa số 2 (nằm trong phạm và hàng rào hiện anh Thực mang số dụng).

    Ngang mặt tiền giáp Quốc lộ 80 là 20,2m.

    Ngang sau hậu hai đoạn: một đoạn 11m,một đoạn là 16m.

    Dài một cạnh giáp hàng rào chợ là 43. 4m định đến mí lộ

    Dài một cạnh giáp đất tranh chấp là 4 7, 6m định đến mí lộ.

    * Căn nhà cấp 4 và diện tích (chị Kiều đang sở hũu) đươc thể hiện như sau:

    Nhà chính: Nhà tiền chế khung sắt, nền gạch tàu, vách tường, lớp tol, kém sóng tròn. ngang 07m, dài 07m. diện tích 59m2 trong đó có khả vệ sinh là 10m2.

     Nhà phụ: Nền gạch tàu, vách ván tạp, toi kém sóng tròn, đòn tay gỗ tạp diện tích là 23,1m2.

    Phần dân gạch tàu xung quanh nhà là 105,22m2.

    Tất cả đều theo cơ đồ đo đạc ngày 17/11/2 004 kèm theo

    Sau khi phát mãi bán đất đá các phần đất và nhà nói trên để giao cả cho bà Nguyễn Thị Lang số tiền 327. 006. 567 đồng. Phần cỏn lại xung vào công quỹ Nhà nước.

    Buộc bà Trần Thị Bảy ông Hình Phước Thanh giao hai giây chứng nhận quyền sử dụng đất (bản chính do bà Bảy đứng tên theo số 02613 QSDĐ/B2 ngày 20/7/1996 và một giây số M252779 ngày 21/11/1998 để hủy bỏ.

    Tiền chi phí đo đạc và đinh giá là 280.000đ ông Thanh, bà Bảy phải nộp (bà Lang đã tạm ứng và chi xong cho Hội đồng. Bà Bảy, ông Thanh phải nộp lại để giao trả cho bà Lang tại Cơ quan Thi hành án tỉnh Đồng Tháp.

    Ngoài ra, Toà án cấp sơ thẩm còn có quyết định về án phí.

    Ngày 03-01-2006 và ngày 18-01-2006, ông Hình Phước Thanh kháng cáo và bổ sung đơn kháng cáo yêu cầu định giá lại đất trả lại vốn gốc cho bà Lang; chênh lệch tài sản xin sung công quỹ Nhà nước; yêu cầu cho ông được đứng tên quyền sử dụng đất; xem xét công sức tôn tạo đất của ông; phần đất chưa được cấp giấy chứng nhận do ông mua riêng.

    Ngày 03-01-2006, chị Hình Thúy Kiều có đơn kháng cáo cho rằng nhà do cha mẹ chị và chị xây dựng, nhưng Toà án lại công nhận cho bà Lang là không đúng Anh Huỳnh Minh Như Thức kháng cáo cho rằng phần đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là do anh mua của bà Bảy, không đồng ý yêu cầu đòi đất của bà Lang.

    Tại bản án dân sự phúc thẩm số 264/2006/DSPT ngày 10-7-2006, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

    Không chấp nhận kháng cáo của ông Hình Phước Thanh, anh Huỳnh Minh Như Thức và cả Hình Thuý Kiều, sửa một phần bản án sơ thẩm về việc huỷ bỏ hai giấy chứng nhận quyền dụng đất bằng hình thức kiến nghị thu hồi (Kiến nghị Uỷ ban nhân dân huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: 02613/QSDĐ/B2 ngày 20/7/1996 và Uỷ ban nhân dân huyện Lấp Vò. tinh Đồng Tháp thu hồi giây chưg nhận quyền sử dụng đất sổ M252779 ngày 21/1/1998 do bà Trần Thị Bảy đứng tên.

    Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.

    Sau đó, bà Trần Thị Bảy, ông Hình Phước Thanh, chị Hình Thuý Kiều, anh Huỳnh Minh Như Thức có đơn khiếu nại bản án phúc thẩm nêu trên.

    Tại quyết định số335/20091KN-DS ngày 6/7/2009 Chánh án Toà án nhân dân tối cao kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số 264/2006/DSPT ngày 10-7-2006 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng huỷ bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và huỷ bản án dân sự sơ thẩm số 15/2005/DSST ngày 29-12-2005 của Toà án nhân dân tỉnh Đồng Tháp; giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

    Tại phiên toà giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao.

     

    XÉT THẤY:

    Việc vợ chồng bà Trần Thị Bảy, ông Hình Phước Thanh vay 20 lượng vàng của bà Nguyễn Thị Lang và nhận 3.400 Phrăng Thụy Sĩ đã được Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh giải quyết (tại bản án dân sự phúc thẩm số 204/DSPT ngày 09-6-2005).

    Đối với việc bà Nguyễn Thị Lang nhờ bà Trần Thị Bảy và ông Hình Phước Thanh nhận chuyển nhượng đất và đứng tên giùm 10.206m2 đất, thấy rằng: từ năm 1995 đến năm 2003, bà Nguyễn Thị Lang (người Việt Nam định cư ở nước ngoài) đã nhiều lần gửi tiền, vàng về nhờ vợ chồng bà Bảy, ông Thanh nhận chuyển nhượng và đứng tên giùm 10.206m2 đất (gồm 5.944m2 đất ruộng ở xã Vĩnh Thạnh, huyện Lấp Vò; hai mảnh vườn: một mảnh 2.760m2, một mảnh 1.502m2) đo thực tế 1.564,6m2 tại xã Long Hậu, huyện Lai Vung). Ba Trần Thị Bảy được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, diện tích 4.262m2 năm 1996, năm 1997; hộ bà Trần Thị Bảy được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 5.944m2 năm 1998. Tại "Tờ cam kết” ngày 15-12-1998, ông Thanh, bà Bảy cũng thừa nhận phần đất 5.944m2 và phần đất 4.262m2 của bà Lang; vì không có quốc tịch Việt Nam, bà Lang không thể đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được nên bà Lang đã ủy quyền lại cho bà Bảy đứng tên; ông Thanh, bà Bảy cam kết khi nào bà Lang có nhu cầu thì gia đình ông, bà sẽ giao lại số đất nói trên lại cho bà Lang vô điều kiện.

    Như vậy, bà Lang là người Việt Nam định cư ở nước ngoài không đủ điều kiện được sử dựng đất tại Việt Nam, nhưng lại gửi tiền vàng nhờ bà Bảy và ông Thanh nhận chuyển nhượng đất và đứng tên giùm; giao dịch này vô hiệu. Tại thời điểm xét xử sơ thẩm, Bộ luật dân sự năm 1995 đang có hiệu lực, nên Toà án cấp sơ thẩm đã quyết định cho phát mại bán đấu giá các phần đất và nhà, để giao cho bà Lang số tiền đầu tư ban đầu, số tiền chênh lệch còn lại sung vào công quỹ Nhà nước là đúng với quy định tại khoản 1 Điều 137 và đoạn hai khoản 2 Điều 146 Bộ luật dân sự năm 1995. Khi xét xử phúc thẩm, Bộ luật dân sự năm 2005 đã có hiệu lực (Điều 128 Bộ luật dân sự năm 2005 không quy định tịch thu tài sản giao dịch và hoa lợi, lợi tức thì được do giàu dịch dân sự vô hiệu vì vi phạm điều cấm của pháp luật), lẽ ra phải xem xét để vợ chồng bà Bảy sử dụng đất và trả lại tiền nhận chuyển nhượng đất ban đầu cho bà Lang còn phần tiền chênh lệch giá thì mỗi bên được hưởng một phần vì một bên bỏ tiền ra đầu tư, còn một bên có công sức giao dịch nhận chuyển nhượng đất (nếu bà Lang có yêu cầu thanh toán tiền chênh lệch) để ổn định việc sử dựng đất của gia đình bà Bảy. Tòa án cấp phúc thẩm vẫn quyết định cho phát mãi bán đấu giá các phần đất, nhà nêu trên để giao cho bà Lang số tiền đầu tư ban đầu, số tiền chênh lệch còn lại sung vào công quỹ Nhà nước, là không đúng với quy định tại Điều 128 Bộ luật dân sự năm 2005.

    Trong quá trình tố tụng, bà Lang yêu cầu Tòa án xem xét cả phần đất khoảng 800m2 tại xã Long Hậu huyện Lai Vung (liền kề với l.502m2 đất nói tiêm vì bà cho rằng khi bà Bảy nhận chuyển nhượng đất giùm cho bà cả nguyên lô, nguyên thửa và bà đã rào bao quanh lô đất của bà. Còn vợ chồng bà Bảy, ông Thanh cho rằng ông bà mua riêng phần đất này của ông Võ Văn Tư. Tại "Tờ cam kết” ngày 15-12-1998 về việc bà Bảy đứng tên giùm đất cho bà Lang không đề cập đến phần đất này. Lẽ ra, phải làm rõ bà Bảy, ông Thanh có mua giùm bà Lang phần đất nói trên hay không; yêu cầu bà Lang xuất trình tài liệu chứng minh là đã gửi khoản tiền nào về cho ông Thanh, bà Bảy nhận chuyển nhượng phần đất này và giá bao nhiêu; có phải ông Thanh, bà Bảy nhận chuyển nhượng đất của ông Võ Văn Tư hay không; tại sao khi bà Lang làm hàng rào phần đất này mà vợ chồng bà Bảy không phản đối? Các vấn đề nêu trên chưa được làm rõ, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định đất nêu trên nằm trong nguồn tiền do bà Lang gửi về để vợ chồng bà Bảy nhận chuyển nhượng, nên đã giao cho cơ quan thi hành án đê phát mại bán đấu giá, là chưa đủ cơ sở.

    Mặt khác, bà Lang cho rằng bà và bà Bảy đã thỏa thuận là bà lấy căn nhà cấp 4 trên l.502m2 đất nói trên; con bà Bảy lấy một nền nhà của bà tại chợ Cái Tắc, nhưng ông Thanh và bà Bảy không thừa nhận về việc đổi nhà và nền nhà nêu trên. Vợ chồng chị Hình Thúy Kiều (con bà Bảy, ông Thanh) ở nhà đất này và chị Kiều khai rằng: chị bỏ tiền ra xây dựng căn nhà cấp 4 nêu trên vào năm 2000 (hết khoảng 60.000.000 đồng). Như vậy, các bên có lời khai khác nhau về việc đổi nhà và nền nhà nêu trên; bà Lang cũng không xuất tình được tài liệu chứng minh về việc đổi nhà và nền nhà; ai bỏ tiền ra xây cất căn nhà cấp 4 và vợ thống chị Kiều chuyển đến đây ở từ khi nào? Các vấn đề này chưa được làm rõ, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định bà Lang đổi nền nhà ở chợ Cái Tắc cho gia đình bà Bảy để lấy nhà cấp 4 nêu trên, là chưa đủ cơ sở vững chắc.

    Bên cạnh đó, sau khi nhận chuyển nhượng đất, gia đình bà Bảy đã trồng một số cây trên lô đất 2.760m2, nhưng Toà án cấp sơ thâm và Toà án cấp phúc thẩm chưa xem xét, giải quyết quyền lợi của gia đình bà Bảy đối với số cây trồng trên đất là thiếu sót.

    Theo Công văn số432/TB-THA ngày 28-9-2009 của Thi hành án dân sự tỉnh Đồng Tháp thông báo về việc thi hành bản án phúc thẩm nêu trên như sau:

    Ngày 31-12-2007 Thi hành án dân sự tỉnh Đồng Tháp đã ủy quyền cho Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản tỉnh Đồng Tháp tổ chức bán đấu giá xong lô đất 1.502m2 (đo thực tế l.564,6m2) tại xã Long Hậu và căn nhà cấp 4 của chị Kiều, tổng số tiền 380.842.164 đồng (người mua trúng đấu giá là ông Phan Văn Khiết và bà Nguyễn Thị Bích Phượng ở tại địa phương); đã cưỡng chế giao nhà và quyền sử dụng đất xong. Tiếp theo, ngày 30- 9-2008 đã bán đấu giá xong đất cây lâu năm ở thửa 85 điện tích 2.760m2 (đo thực tế 2.535,75m2) tại xã Long Hậu và cây trồng trên đất tổng số tiền 288.162.250 đồng (người mua trúng đấu giá là ông Lê Hoàng Chiến); ông Chiến đã nộp 14.000.000 đồng, nhưng do gia đình ông Thanh đến hành hung ông Chiến, chờ Toà án giải quyết nên chưa nộp đủ tiền để nhận đất Các phần đất còn lại gồm: đất ruộng thửa 582 là 905m2 tại xã Vĩnh Thạnh, trị giá 17.490.600 đồng; phần đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dựng đất, diện tích 754m2 tại xã Long Hậu, trị giá 449.375.000 đồng (hai phần đất này đã đưa ra bán đấu giá nhiều lần, nhưng không có người mua).

    Do đó, khi giải quyết lại vụ án cần xem xét việc bán đấu giá tài sản có đúng quy định của pháp luật hay không; nếu bán đấu giá tài sản đã xong mà việc bán đấu giá đó đúng quy định của pháp luật thì phải bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người mua ngay tình thông qua đến giá tài sản theo quy định tại khoản 2 Điều 138 Bộ luật dân sự năm 2005 (trường hợp này giá bán đấu giá tài sản là căn cứ xác định giá trị tài sản có tranh chấp khi giải quyết vụ án), nếu bán đến giá tài sản không đúng quy định của pháp luật thì không công nhận kết quả bán đấu giá. Đối với phần đất đã bán đấu giá, người mua đã trả một phần tiền, chưa giao nhận đất thì lý do tại sao người mua chưa giao đủ tiền và chưa được nhận đất? các bên có chấp hành đúng các quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản hay không? trên cơ sở đó mới công nhận hoặc không công nhận kết quả bán đấu giá đối với phần đất này. Còn phần đất chưa bán đấu giá được thì giải quyết theo nhận định nêu trên. Khi giải quyết lại vụ án, cần đưa những người mua đấu giá tài sản nêu trên tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để việc giải quyết em án đúng pháp luật.

    Vì các lẽ trên căn cứ khoản 3 Điều 291 và khoản 3 Điều 297 Bộ luật tố tụng dân sự;

     

    QUYẾT ĐỊNH:

    Huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 264/2006/T)SPT ngày 10-7-2006 của Toà phúc thẩm Toà an nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và hủy bản án dân sự sơ thẩm số 15/2005/DSST ngày 29-12-2005 của Toà án nhân dân tỉnh Đồng Tháp về vụ án “Kiện đòi tài sản" giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Lang với bị đơn là bà Trần Thị Bảy, ông Hình Phước Thanh; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị Hình Thúy Kiều, anh Huỳnh Minh Như Thức.

    Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

     

     
    6903 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận