Số hiệu
|
27/2007/DS-GĐT
|
Tiêu đề
|
Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Chia tài sản khi ly hôn"
|
Ngày ban hành
|
08/08/2007
|
Cấp xét xử
|
Giám đốc thẩm
|
Lĩnh vực
|
Dân sự
|
……..
Ngày 08 tháng 8 năm 2007, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự về chia tài sản khi ly hôn giữa:
Nguyên đơn: Chị Lê Thị Ánh Loan sinh ngày 15-5-1967; trú tại số 225A Phan Chu Trinh, thị xã Kon Tum, tỉnh Kon Tum.
Bị đơn: Anh Lương Văn Chinh sinh ngày 10-02-1957; trú tại số 34C Đoàn Thị Điểm, thị xã Kon Tum, tỉnh Kon Tum.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Lương Văn Vinh; trú tại số 73 Phạm Ngọc Thạch, thị xã Kon Tum, tỉnh Kon Tum.
NHẬN THẤY:
Theo đơn khởi kiện ngày 05-02-2001 và các lời khai tại Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án, chị Lê Thị Ánh Loan trình bày:
- Về hôn nhân: chị và anh Lương Văn Chinh kết hôn ngày 31-01-1989, nhưng do có mâu thuẫn nên chị và anh Chinh đã sống ly thân, vì vậy chị yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn với anh Lương Văn Chinh.
- Về con chung: chị và anh Chinh có ba con chung gồm Lương Sỹ Đông sinh năm 1995, Lương Thị Thảo Trang sinh năm 1992 và Lương Sỹ Đạt sinh năm 2001. Chị Loan yêu cầu Tòa án giải quyết để chị được nuôi cháu Đông và cháu Đạt.
- Về tài sản chung: ngày 30-6-2001, chị và anh Chinh thỏa thuận xác định tài sản và nợ chung của vợ chồng. Chị yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng gồm:
+ Nhà, đất tại số 34C Đoàn Thị Điểm, thị xã Kon Tum, tỉnh Kon Tum;
+ Nhà, đất tại số 148 Hùng Vương, thị xã Kon Tum, tỉnh Kon Tum;
+ Nhà, đất tại số 73 Phạm Ngọc Thạch, thị xã Kon Tum, tỉnh Kon Tum;
+ Nhà, đất tại số 146 Hùng Vương, thị xã Kon Tum, tỉnh Kon Tum (vợ chồng mua của bà Võ Thị Sen, ông Hoàng Văn Thập trước ngày 30-6-2001 giá 63.000.000đ. Vợ chồng đã trả cho bà Sen 50.000.000đ, sau ngày 30-6-2001 anh Chinh trả tiếp cho bà Sen 13.000.000đ);
+ Một xe tải;
+ Một xe ô tô 4 chỗ ngồi;
+ Ba xe máy;
+ Hai xe ba gác;
+ Hàng hóa trong kho trị giá 1.146.550.000đ;
+ Tiền gửi tại ngân hàng 62.913.000đ;
+ Tiền mặt có tại két 31.575.000đ;
+ Một số khách hàng nợ tiền cửa hàng số I của Doanh nghiệp tư nhân Loan-Chinh là 206.000.000đ;
+ Một số khách hàng nợ tiền cửa hàng số II của Doanh nghiệp tư nhân Loan-Chinh là 69.591.000đ;
+ Doanh nghiệp tư nhân Loan –Chinh nợ các khách hàng 960.000.000đ.
Ngoài ra chị còn khai thêm:
+ Khi chị bỏ đi có đem theo 100.000.000đ, 1 xe mày Future, giấy tờ nhà, đất (nhà số 34C Đoàn Thị Điểm, nhà số 73 Phạm Ngọc Thạch, nhà số 146 Hùng Vương) và sổ sách của Doanh nghiệp tư nhân Loan-Chinh;
+ Đối với căn nhà số 73 Phạm Ngọc Thạch và xe máy Dream chị chưa bao giờ cho anh Lương Văn Vinh.
+ Đối với số tiền bị phạt thuế năm 2001 là do lỗi của anh Chinh nên anh Chinh hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Anh Lương Văn Chinh khai: Anh thừa nhận lời khai của chị Loan về hôn nhân, con chung và một số tài sản chung và một số nợ của vợ chồng là đúng. Riêng nhà, đất tại số 146 Hùng Vương, thị xã Kon Tum anh Chinh cho rằng anh là người mua của bà Sen, ông Thập sau ngày 30-6-2001 (sau ngày anh và chị Loan thống nhất chốt nợ) nên nhà, đất này là tài sản riêng của anh; về số nợ mà vợ chồng còn nợ khách hàng là 2.239.381.000đ chứ không phải là 960.000.000đ như chị Loan khai; tiền công trình Doanh nghiệp tư nhân Loan-Chinh chưa thu được là hơn 400.000.000đ; khi chị Loan bỏ đi có đem theo 10.000 USD, 10 cây vàng, 108.000.000đ và các giấy tờ nhà, đất.
Đối với ngôi nhà số 73 Phạm Ngọc Thạch và 1 xe máy Dream vợ chồng đã đồng ý cho em trai anh là Lương Văn Vinh nên không đưa số tài sản này vào tài sản chung để chia.
- Nếu ly hôn anh xin nuôi cả 3 con chung không yêu cầu chi Loan góp phí tổn nuôi con chung. Về phần tài sản chung đề nghị khấu trừ số tiền, vàng chị Loan mang đi vào phần chị Loan được hưởng.
Cả anh Chinh và chị Loan thống nhất không đưa những chủ nợ và những người mắc nợ vợ chồng và Doanh nghiệp tư nhân Loan-Chinh vào tham gia tố tụng.
Anh Lương Văn Vinh khai: Ngày 20-4-1999 anh Chinh và chị Loan đã đồng ý cho anh ngôi nhà số 73 Phạm Ngọc Thạch và 1 xe máy Win 100 sau đó anh Chinh lấy lại xe máy Win 100 để bán và mua xe máy Dream cho anh. Giấy tờ tặng cho chỉ là một mình anh Chinh ký. Anh xác định nhà, đất và xe máy nêu trên là tài sản của anh nên anh không đồng ý trả lại cho vợ, chồng anh Chinh, chị Loan theo yêu cầu của chị Loan.
Tại bản án ly hôn sơ thẩm số10/LH-ST ngày 20-9-2002, Tòa án nhân dân thị xã Kon Tum quyết định với nội dung:
- Về quan hệ vợ chồng: công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Lê Thị Ánh Loan và anh Lương Văn Chinh tại phiên tòa.
- Về con chung: giao cho chị Lê Thị Ánh Loan nuôi dạy hai con chung là Lương Thị Thảo Trang sinh năm 1992 và Lương Sỹ Đạt sinh năm 2001; giao cho anh Lương Văn Chinh nuôi con chung là Lương Sỹ Đông sinh năm 1995.
Anh Lương Văn Chinh có nghĩa vụ góp phí tổn nuôi con chung cho chị Lê Thị Ánh Loan mỗi tháng 300.000đ, kể từ tháng 9-2002 đến khi các con chung trưởng thành tròn 18 tuổi, sống tự lập được.
Hai bên có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc con chung không ai được quyền ngăn cản.
Về tài sản chung:
+ Chia cho chị Lê Thị Ánh Loan được quyền sở hữu tài sản gồm:
1. Căn nhà số 34C Đoàn Thị Điểm-Kon Tum trị giá: 550.000.000đ.
2. Nhà kho ở 148 Hùng Vương- Kon Tum trị giá: 200.000.000đ.
3. Nhà chưa có sổ ở Phạm Ngọc Thạch, Kon Tum trị giá: 50.000.000đ.
4. Một xe tải hiệu Nissan trọng tải 13,7 tấn trị giá: 200.000.000đ.
5. Một xe máy hiệu Future trị giá: 22.000.000đ.
6. Một xe máy Dream II trị giá: 10.000.000đ.
7. Ba lô đất mua đấu giá ở Ngọc Hồi trị giá: 94.000.000đ.
Tổng cộng giá trị tài sản chị Loan được chia: 1.126.000.000đ.
+ Chia cho anh Lương Văn Chinh được sở hữu tài sản gồm:
1. Tài sản bằng hàng hóa trị giá: 1.146.550.000đ.
2. Một lô đất mua của bà Sen trị giá: 64.000.000đ.
3. Một xe ô tô hiệu DaeWod Cielo đời 98 trị giá: 130.000.000đ.
4. Một xe máy hiệu Win (Nhật) trị giá: 15.000.000đ.
5. Hai xe ba gác máy trị giá: 10.000.000đ.
6. Tiền mặt tại két: 31.575.000đ.
7. Tiền gửi tại ngân hàng: 62.913.000đ.
Tổng cộng giá trị tài sản anh Chinh được chia: 1.460.038.000đ.
Anh Lương Văn Chinh phải trả cho chị Lê Thị Ánh Loan số tiền chênh lệch về tài sản là 212.038.000đ.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, điều kiện thi hành án và tuyên quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 26-9-2002, anh Lương Văn Chinh kháng cáo yêu cầu xem xét về việc nuôi con chung và chia tài sản chung.
Tại bản án ly hôn phúc thẩm số 02/HNPT ngày 16-01-2003, Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum quyết định có nội dung:
- Không chấp nhận một phần đơn kháng cáo của anh Lương Văn Chinh đề ngày 26-9-2002 về phần con chung: giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm về phần này; giao cho chị Lê Thị Ánh Loan nuôi dạy hai con chung là Lương Thị Thảo Trang sinh năm 1992 và Lương Sỹ Đạt sinh năm 2001; giao cho anh Lương Văn Chinh nuôi con chung và Lương Sỹ Đông, sinh năm 1995.
Anh Lương Văn Chinh có nghĩa vụ góp phí tổn nuôi con chung cho chị Lê Thị Ánh Loan mỗi tháng 300.000đ, kể từ tháng 9-2002 đến khi các con chung trưởng thành tròn 18 tuổi, sống tự lập được. Hai bên có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc con chung không ai được quyền ngăn cản.
- Chấp nhận một phần đơn kháng cáo đề ngày 26-9-2002 của anh Lương Văn Chinh đối với quyết định của bản án sơ thẩm về phần chia tài sản chung. Hủy bản án sơ thẩm về phần chia tài sản chung của vợ chồng và án phí về tài sản theo giá ngạch; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thị xã Kon Tum xét xử lại theo thủ tục chung.
- Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật.
Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 01/2005/DSST ngày 02-8-2005, Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum quyết định:
“… Chấp nhận đơn khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung của chị Lê Thị Ánh Loan; cụ thể như sau:
* Chị Lê Thị Ánh Loan được nhận tiền và các tài sản sau:
+ 01 căn nhà tại số 34C Đoàn Thị Điểm trị giá: 550.000.000đ.
+ 01 xe máy Future trị giá: 22.000.000đ.
+ Tiền mặt (chị Loan mang đi): 100.000.000đ.
+Thu nợ các khách hàng gồm:
1. Dũng-Phan Chu Trinh-KonTum: 1.500.000đ;
2. Huỳnh Công Quốc-Nguyễn Bỉnh Khiêm-Kon Tum: 5.582.000đ;
3. Trịnh Bảo Trương-101 Hoàng Văn Thụ-Kon Tum: 5.303.000đ;
4. Hồ Giang Hải-74 Trần Hưng Đạo-Kon Tum: 1.389.000đ;
5. Nguyễn Duy Hiếu-49 Trương Định-Kon Tum: 4.265.000đ;
6. Hồ Hoàng Ngọc Thạch-138 Bà Triệu-Kon Tum: 3.443.000đ;
7. Trần Văn Chương-205 Phan Chu Trinh-Kon Tum: 7.224.000đ;
8. Trương Văn Huân-26B Trần Nhân Tông-Kon Tum: 5.702.000đ;
9. Cáp Văn Đức-216 Phan Chu Trinh-Kon Tum: 1.433.000đ;
10. Nguyễn Văn Hải-148 Lê Quý Đôn-Kon Tum: 5.629.000đ;
11. Anh Trọng-Sa Thầy: 3.036.000đ
12. Chị Liên (chị ruột chị Loan): 1.920.000đ;
13. Anh Hòa –Đắk Tô: 4.000.000đ;
14. Hợi-B15: 1.160.000đ;
15. Chị Nhung- Cháo gà Lê Hồng Phong: 312.000đ;
16. Anh Bảo-Công ty xi măng Ya Ly (Trần Khánh Dư): 2.882.000đ.
Tổng cộng: 54.780.000đ.
+ Hàng tồn kho bao gồm:
STT
|
Tên vật tư
|
Đ. vị
|
Số lượng
|
Đơn giá
|
Thành tiền
|
01
|
Inox các loại
|
kg
|
1.734
|
30.000
|
52.020.000
|
02
|
Ổ khóa các loại
|
ổ
|
168
|
50.000
|
8.400.000
|
03
|
Thép hình các loại (ống +V)
|
kg
|
4.000
|
10.000
|
40.000.000
|
|
Tổng cộng
|
|
|
|
100.420.000
|
+ Khoản tiền anh Chinh phải thanh toán cho chị Loan do chênh lệch tài sản là: 172.800.000đ.
Như vậy: Tổng số tiền và giá trị tài sản chị Lê Thị Ánh Loan được chia là 1.000.000.000đ (một tỷ đồng).
* Anh Lương Văn Chinh được nhận các tài sản và tiền như sau:
+ 01 xe tải 13,7 tấn trị giá: 200.000.000đ;
+ 01 xe 4 chỗ ngồi trị giá: 130.000.000đ;
+ 01 xe Dream (cũ): 10.000.000đ;
+ 02 xe ba gác: 10.000.000đ;
+ 01 xe Win 100: 15.000.000đ;
+ Tiền gửi tại ngân hàng: 62.000.000đ;
+ Tiền tại két: 31.000.000đ;
+ Tiền khách hàng nợ cửa hàng I và II: 167.008.000đ;
+ Các khoản nợ khó đòi theo danh sách cụ thể:
1. Quốc Ya Ly - Gia Lai: 1.976.000đ;
2. Thanh-KNS Minh Hiển: 6.000.000đ;
3. Công Tình-Đắk Tô: 3.000.000đ;
4. Bi (KNS Cường Thịnh)-Đắk Tô: 7.415.000đ;
5. Nhiều-Trần Phú: 1.124.000đ;
6. Hùng cấp nước-Trần Phú: 759.000đ;
7. Anh Sơn (cao su)-Phan Đình Phùng: 570.000đ;
8. Sơn (chồng chị Lợi)-Kon Tum: 507.000đ;
9. Hùng - Mạc Đĩnh Chi: 2.779.000đ;
10. Quốc Thành Thầu-Trần Bình Trọng: 3.217.000đ;
11. Tuấn-Trần Hưng Đạo (em Hà Thủy): 700.000đ;
12. Tý (Bê)-Sa Thầy: 3.120.000đ;
13. Lâm (KNS Sơn Lâm)-Đắk Hà: 6.877.000đ;
14. Anh -Garaxe-Trần Hưng Đạo: 3.485.000đ;
15. Thới-Đắk Hring: 824.000đ;
16. Kiệt-Ngô Quyền: 1.000.000đ;
17. Chị Hiền-Đắk Hà: 2.319.000đ;
18. Lộc Trinh-Lò gạch: 2.733.000đ;
19. Ngọc Hải- Huỳnh Thúc Kháng: 6.170.000đ.
Tổng cộng: 54.575.000đ;
+ Tài sản có tại kho (anh Chinh đã bán): 941.913.000đ;
+ Hàng tồn kho gồm các loại như sau:
STT
|
Tên vật tư
|
Đơn vị
|
Số lượng
|
Đơn giá
|
Thành tiền
|
01
|
Tôn lạnh ngoại
|
Md
|
929,5
|
54.000
|
50.193.000
|
02
|
Nhôm các loại
|
Kg
|
1.044
|
46.000
|
48.024.000
|
03
|
Cao su nhôm + phụ kiện
|
Kg
|
200
|
30.000
|
6.000.000
|
|
Tổng cộng
|
|
|
|
104.217.000
|
+ Tiền thu nợ từ các công trình: 708.406.000đ;
+ 01 căn nhà tại số 148 Hùng Vương: 200.000.000đ;
+ 01 căn nhà tại số 146 Hùng Vương: 50.000.000đ;
+ 01 căn nhà tại số 73 Phạm Ngọc Thạch: 50.000.000đ;
Tổng cộng: 2.734.119.000đ.
Trong số tiền trên anh Chinh đã tự trả nợ chung cho các cá nhân và doanh nghiệp khác là 1.167.601.000đ, nộp thuế 130.379.000đ. Anh Chinh phải thanh toán chênh lệch tài sản cho chị Loan 172.800.000đ. Tổng cộng số tiền và tài sản anh Lương Văn Chinh được nhận là 1.263.339.000đ (một tỷ, hai trăm sáu mươi ba triệu, ba trăm ba mươi chín ngàn đồng).
Chị Lê Thị Ánh Loan phải giao toàn bộ giấy tờ gốc có liên quan đến căn nhà 73 Phạm Ngọc Thạch; 146 Hùng Vương (nhà mua của ông Thập-bà Sen) và toàn bộ giấy tờ sổ sách liên quan đến doanh nghiệp cho anh Lương Văn Chinh.
Hai bên có quyền đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở theo quy định của pháp luật.
- Anh Lương Văn Chinh phải giao số hàng tồn kho theo danh mục (đã kê) cho chị Lê Thị Ánh Loan với giá trị 100.420.000đ (nếu anh Chinh không giao đủ hàng thì phải thanh toán giá trị lô hàng bằng tiền là 100.420.000đ).
- Anh Lương Văn Chinh phải thanh toán tiền chênh lệch tài sản cho chị Lê Thị Ánh Loan số tiền 172.800.000đ (một trăm bảy mươi hai triệu, tám trăm nghìn đồng).
Bác yêu cầu của anh Lương Văn Vinh được sở hữu đối với căn nhà 73 Phạm Ngọc Thạch và xe máy Dream.”
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, điều kiện thi hành án và tuyên quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 10-8-2005 anh Chinh kháng cáo có nội dung sau:
1. Nhà, đất tại số 146 Hùng Vương, thị xã Kon Tum là do anh mua sau ngày 30-6-2001 nên đây là tài sản riêng của anh.
2. Nhà, đất tại số 34C Đoàn Thị Điểm không đồng ý giá trị 550.000.000đ.
3. Đề nghị xem xét lại các khoản nợ và các khoản phải thu đã được khấu trừ trước và thanh toán trước ngày 30-6-2001.
Ngày 10-8-2005 anh Vinh kháng cáo có nội dung: anh Chinh và chị Loan đã cho anh ngôi nhà số 73 Phạm Ngọc Thạch và 01 xe máy Dream nên không đồng ý trả lại cho vợ chồng anh Chinh.
Ngày 14-8-2005 chị Loan kháng cáo có nội dung:
1. Đề nghị chia đôi tài sản chung.
2. Không đồng ý một số khoản nợ do anh Chinh nêu ra như nợ bà Trung 50.000.000đ; nợ bà Hồng-Khanh 35.000.000đ; nợ bà Phúc –Yến 35.035.000đ; chênh lệch nợ của bà Nữ 81.605.000đ; tiền thuế Tòa án tính nhầm 32.499.000đ. Không nợ bà Liên 1.920.000đ.
3. Yêu cầu giao cho chị nhà số 34C Đoàn Thị Điểm trong đó có cả nội thất.
4. Không đồng ý nhận hàng hóa tồn kho mà nhận giá trị hàng hóa tính tại thời điểm ngày 30-6-2001.
Tại bản án dân sự phúc thẩm số 69 ngày 23-12-2005, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng quyết định:
“… Chấp nhận một phần kháng cáo chị Lê Thị Ánh Loan; sửa một phần bản án sơ thẩm.
Áp dụng Điều 27, Điều 95 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, tuyên xử:
Chấp nhận khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung của Chị Lê Thị Ánh Loan; cụ thể như sau:
1. Chị Lê Thị Ánh Loan nhận được tiền và các tài sản như sau:
+ 01 căn nhà tại số 34C Đoàn Thị Điểm trị giá: 550.000.000đ.
+ 01 xe máy Future trị giá: 22.000.000đ.
+ Tiền mặt (chị Loan mang đi): 100.000.000đ.
+ Thu nợ khách hàng gồm:
1. Dũng-Phan Chu Trinh-KonTum: 1.500.000đ;
2. Huỳnh Công Quốc-Nguyễn Bỉnh Khiêm-Kon Tum: 5.582.000đ;
3. Trịnh Bảo Trương-101 Hoàng Văn Thụ-Kon Tum: 5.303.000đ;
4. Hồ Giang Hải-74 Trần Hưng Đạo-Kon Tum: 1.389.000đ;
5. Nguyễn Duy Hiếu-49 Trương Định-Kon Tum: 4.265.000đ;
6. Hồ Hoàng Ngọc Thạch-138 Bà Triệu-Kon Tum: 3.443.000đ;
7. Trần Văn Chương-205 Phan Chu Trinh-Kon Tum: 7.224.000đ;
8. Trương Văn Huân-26B Trần Nhân Tông-Kon Tum: 5.702.000đ;
9. Cáp Văn Đức-216 Phan Chu Trinh-Kon Tum: 1.433.000đ;
10. Nguyễn Văn Hải-148 Lê Quý Đôn-Kon Tum: 5.629.000đ;
11. Anh Trọng-Sa Thầy: 3.036.000đ
12. Chị Liên (chị ruột chị Loan): 1.920.000đ;
13. Anh Hòa –Đắk Tô: 4.000.000đ;
14. Hợi-B15: 1.160.000đ;
15. Chị Nhung- Cháo gà Lê Hồng Phong: 312.000đ;
16. Anh Bảo-Công ty xi măng YaLy (Trần Khánh Dư): 2.882.000đ.
Tổng cộng: 54.780.000đ.
Hàng tồn kho:
+ Inox các loại 1.734 kg x 30.000đ/kg =52.020.000đ.
+ Ổ khóa các loại 168 ổ x 50.000đ/ổ=8.400.000đ.
+ Thép hình các loại (ống x V) 4.000 kg x 10.000đ/kg =40.000.000đ.
Tổng cộng: 100.420.000đ.
Tổng số tiền, tài sản chị Lê Thị Ánh Loan nhận là 827.200.000đ. Chị Lê Thị Ánh Loan được nhận số tiền chênh lệch tài sản 300.000.000đ do anh Lương Văn Chinh thanh toán.
2. Anh Lương Văn Chinh được nhận các tài sản và tiền như sau:
+ 01 xe tải 13,7 tấn trị giá: 200.000.000đ;
+ 01 xe 4 chỗ ngồi trị giá: 130.000.000đ;
+ 01 xe Dream (cũ): 10.000.000đ;
+ 02 xe ba gác: 10.000.000đ;
+ 01 xe Win 100: 15.000.000đ;
+ Tiền gửi tại ngân hàng: 62.000.000đ;
+ Tiền tại két: 31.000.000đ;
+ Tiền khách hàng nợ cửa hàng I và II: 167.008.000đ;
+ Các khoản nợ khó đòi theo danh sách cụ thể:
1. Quốc Ya Ly - Gia Lai: 1.976.000đ;
2. Thanh-KNS Minh Hiển: 6.000.000đ;
3. Công Tình-Đắk Tô: 3.000.000đ;
4. Bi (KNS Cường Thịnh)-Đắk Tô: 7.415.000đ;
5. Nhiều-Trần Phú: 1.124.000đ;
6. Hùng cấp nước-Trần Phú: 759.000đ;
7. Anh Sơn (cao su)-Phan Đình Phùng: 570.000đ;
8. Sơn (chồng chị Lợi)-Kon Tum: 507.000đ;
9. Hùng - Mạc Đĩnh Chi: 2.779.000đ;
10. Quốc Thành Thầu-Trần Bình Trọng: 3.217.000đ;
11. Tuấn-Trần Hưng Đạo (em Hà Thủy): 700.000đ;
12. Tý (Bê)-Sa Thầy: 3.120.000đ;
13. Lâm (KNS Sơn Lâm)-Đắk Hà: 6.877.000đ;
14. Anh -Garaxe-Trần Hưng Đạo: 3.485.000đ;
15. Thới-Đắk Hring: 824.000đ;
16. Kiệt-Ngô Quyền: 1.000.000đ;
17. Chị Hiền-Đắk Hà: 2.319.000đ;
18. Lộc Trinh-Lò gạch: 2.733.000đ;
19. Ngọc Hải- Huỳnh Thúc Kháng: 6.170.000đ.
Tổng cộng: 54.575.000đ;
* Tài sản có tại kho (anh Chinh đã bán): 941.913.000đ;
* Hàng tồn kho gồm các loại như sau:
+ Tôn lạnh ngoại 929,5 md x 54.000đ/md=50.193.000đ.
+ Nhôm các loại 1.044 kg x 46.000đ/kg=48.024.000đ.
+ Cao su nhôm + phụ kiện 200kg x 30.000d/kg = 6.000.000đ.
Tổng cộng: 104.217.000đ.
* Tiền thu nợ từ các công trình: 708.406.000đ.
* Căn nhà số 148 Hùng Vương, trị giá: 200.000.000đ.
* Căn nhà 146 (số mới là 142) Hùng Vương, trị giá: 50.000.000đ.
* Căn nhà 73 Phạm Ngọc Thạch, trị giá: 50.000.000đ.
Tổng cộng: 2.734.119.000đ.
Trong số tiền trên anh Chinh đã tự trả nợ chung cho các cá nhân và doanh nghiệp khác số tiền 1.167.601.000đ và nộp thuế 97.897.883đ. Anh Chinh phải thanh toán chênh lệch tài sản cho chị Loan số tiền là 300.000.000đ; tổng số tiền và giá trị tài sản anh Lương Văn Chinh được nhận là 1.168.638.117đ.
3. Chị Lê Thị Ánh Loan phải giao toàn bộ giấy tờ gốc có liên quan đến căn nhà 73 Phạm Ngọc Thạch; 146 (số mới 142) Hùng Vương (nhà mua của ông Thập-bà Sen) và toàn bộ giấy tờ sổ sách liên quan đến Doanh nghiệp cho anh Lương Văn Chinh.
Hai bên có quyền đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở theo quy định của pháp luật.
4. Anh Lương Văn Chinh phải giao số hàng tồn kho theo danh mục (đã kê) cho chị Lê Thị ánh Loan với giá trị 100.420.000đ (nếu anh Chinh không giao đủ hàng thì phải thanh toán giá trị lô hàng bằng tiền là 100.420.000đ).
5. Anh Lương Văn Chinh phải thanh toán tiền chênh lệch tài sản cho chị Lê Thị Ánh Loan số tiền 300.000.000đ (ba trăm triệu đồng).
6. Bác yêu cầu của anh Lương Văn Vinh được sở hữu đối với căn nhà 73 Phạm Ngọc Thạch và xe máy Dream”.
Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí và điều kiện thi hành án.
Sau khi xét xử phúc thẩm có các đương sự sau đây khiếu nại:
Anh Lương Văn Vinh khiếu nại với nội dung: nhà 73 Phạm Ngọc Thạch và chiếc xe máy Dream vợ chồng anh Chinh đã cho anh, nên anh không đồng ý trả lại cho vợ chồng anh Chinh. Anh mới vắng mặt phiên tòa lần đầu nhưng Tòa án lại cho rằng anh vắng mặt 2 lần để đình chỉ xét xử phúc thẩm phần kháng cáo của anh là vi phạm thủ tục tố tụng.
Anh Lương Văn Chinh khiếu nại với nội dung: nhà đất tại số 146 Hùng Vương là do anh mua của vợ chồng ông Thập, bà Sen giá 63.000.000đ sau ngày 30-6-2001 (ngày anh và chị Loan chốt nợ). Vì vậy, đây là tài sản riêng của anh, nhưng Tòa án lại xác định là tài sản chung để chia là gây thiệt hại đến quyền lợi của anh.
Về các khoản nợ vợ chồng còn phải trả tính đến ngày 30-6-2001 theo anh là 2.239.381.000đ, nhưng chị Loan chỉ thừa nhận nợ có 960.000.000đ; ngoài lời khai chị Loan không xuất trình được chứng cứ, nhưng Tòa án lại chấp nhận lời khai của chị Loan phần còn lại bắt anh một mình trả nợ là gây thiệt hại đến quyền lợi của anh. Anh Vinh mới vắng mặt phiên tòa lần đầu, nhưng Tòa án lại đưa vụ án ra xét xử là vi phạm Điều 266 Bộ luật tố tụng dân sự.
Tại Quyết định số86/2007/KN-DS ngày 23-5-2007, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy bản án dân sự phúc thẩm nêu trên, bản án dân sự sơ thẩm số 01/2005/DSST ngày 02-8-2005 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật với nhận định:
“… Tại phiên Tòa phúc thẩm ngày 03-11-2005 anh Lương Văn Vinh và chị Lê Thị Ánh Loan có mặt, còn anh Lương Văn Chinh vắng mặt nên Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên tòa. Ngày 24-11-2005, Tòa án cấp phúc thẩm tiếp tục ra quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm vào ngày 23-12-2005, nhưng tại phiên tòa lần này anh Vinh xin hoãn phiên tòa nên vắng mặt. Như vậy, anh Vinh mới vắng mặt lần đầu. Lẽ ra, phải áp dụng khoản 1 Điều 201 Bộ luật tố tụng dân sự để hoãn phiên tòa nhưng Tòa án cấp phúc thẩm vẫn đưa vụ án ra xét xử và cho rằng anh Vinh là người kháng cáo đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt tại phiên Tòa phúc thẩm, là từ bỏ kháng cáo nên đã quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với phần kháng cáo của anh Vinh là vi phạm Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự.
Mặt khác, trong quá trình giải quyết vụ án anh Lương Văn Chinh và chị Lê Thị Ánh Loan không yêu cầu đưa các chủ nợ và con nợ vào tham gia tố tụng; nhưng cả anh Chinh và chị Loan đều thừa nhận thực tế một số người còn nợ tiền của vợ chồng anh chị và anh chị cũng còn thiếu nợ của một số người khác (anh Chinh cho rằng tổng cộng vợ chồng còn nợ 16 cá nhân và Doanh nghiệp là 2.239.381.000đ, các giấy tờ chứng minh về các khoản nợ do chị Loan vẫn giữ; trong khi đó chị Loan chỉ thừa nhận vợ chồng còn nợ 960.000.000đ). Trong trường hợp này, lẽ ra phải đưa tất cả những người mà vợ chồng anh Chinh, chị Loan còn thiếu nợ và những người còn nợ tiền vợ chồng anh Chinh, chị Loan vào tham gia tố tụng, để họ xuất trình chứng cứ, đưa ra yêu cầu, trong trường hợp cần thiết thì phải đối chất, đồng thời buộc chị Loan xuất trình toàn bộ tài liệu, chứng cứ của Doanh nghiệp tư nhân Loan-Chinh có liên quan, thì mới đủ căn cứ giải quyết vụ án. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không đưa các chủ nợ và các con nợ vào tham gia tố tụng, không yêu cầu chị Loan xuất trình các tài liệu có liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Loan-Chinh, mà chỉ căn cứ vào lời khai của chị Loan đã xác định vợ chồng anh Chinh, chị Loan chỉ còn nợ 960.000.000đ, là chưa đủ căn cứ…”.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
XÉT THẤY:
1. Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì tại phiên tòa giám đốc thẩm ngày 03-11-2005 anh Lương Văn Vinh và chị Lê Thị Ánh Loan có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án, còn anh Lương Văn Chinh vắng mặt, nên Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa (do anh Chinh vắng mặt). Ngày 24-11-2005, Tòa án cấp phúc thẩm quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm vào ngày 23-12-2005, nhưng anh Vinh xin hoãn phiên tòa và vắng mặt. Như vậy, anh Vinh mới vắng mặt lần đầu. Theo quy định tại khoản 2 Điều 266 Bộ luật tố tụng dân sự thì Tòa án cấp phúc thẩm phải hoãn phiên tòa. Tòa án cấp phúc thẩm quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của anh Lương Văn Vinh, nhưng khi xét xử và quyết định Tòa án cấp phúc thẩm vẫn xét xử phúc thẩm vụ án đối với quyết định của bản án sơ thẩm dân sự mà anh Vinh có kháng cáo (trang 8 bản án phúc thẩm) và đã quyết định về vấn đề này (trang 15 bản án phúc thẩm dân sự) là vi phạm thủ tục tố tụng, không bảo đảm quyền tham gia tố tụng của anh Vinh.
2. Trong quá trình giải quyết vụ án tuy anh Lương Văn Chinh và chị Lê Thị Ánh Loan không yêu cầu đưa các chủ nợ và những người mắc nợ vào tham gia tố tụng; nhưng cả hai đều thừa nhận một số đơn vị và cá nhân còn nợ tiền họ và của Doanh nghiệp Loan-Chinh; ngược lại họ và Doanh nghiệp tư nhân Loan-Chinh cũng còn mắc nợ một số cá nhân và doanh nghiệp khác. Anh Chinh khai tổng cộng vợ chồng còn nợ 16 cá nhân và doanh nghiệp khác là 2.239.381.000đ và các giấy tờ chứng minh về các khoản nợ đó do chị Loan giữ; ngược lại chị Loan khai vợ chồng chỉ còn nợ là 960.000.000đ. Trong các khoản nợ mà vợ chồng anh Chinh, chị Loan khai thì có một số khoản nợ đã được thanh toán. Việc xác định trong các chủ nợ hoặc người mắc nợ (bao gồm cả tập thể và cá nhân) có các khoản nợ nào đã được thanh toán, không có tranh chấp và khoản nợ nào chưa được thanh toán và có tranh chấp là rất quan trọng. Việc xác định sự cần thiết tham gia tố tụng và địa vị pháp lý khi tham gia tố tụng của họ. Trường hợp đã được thanh toán và không có tranh chấp với chủ nợ hoặc người mắc nợ, nhưng anh Chinh, chị Loan không thống nhất được khoản nợ đã thanh toán thì xác định người đã là chủ nợ hoặc đã là người mắc nợ phải là nhân chứng trong vụ án.
Trường hợp chưa được thanh toán và có tranh cấp về các khoản nợ với chủ nợ hoặc người mắc nợ thì phải xác định chủ nợ hoặc người mắc nợ là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và phải đưa họ tham gia tố tụng, nếu họ có yêu cầu Tòa án giải quyết các khoản nợ đó.
3. Cần phải xác định trong các khoản nợ (hoặc mắc nợ) có khoản nợ nào phát sinh từ hợp đồng kinh doanh, thương mại của Doanh nghiệp tư nhân Loan-Chinh với các Doanh nghiệp khác hay không. Trường hợp có và có tranh chấp thì phải giải quyết theo đúng quy định của pháp luật đối với tranh chấp về kinh doanh, thương mại.
4. Theo các tài liệu có trong hồ sơ thì chị Loan đang giữ toàn bộ chứng từ, tài liệu của Doanh nghiệp tư nhân Loan-Chinh, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không buộc chị Loan giao nộp các chứng từ, tài liệu mà lại chấp nhận lời khai của chị Loan để xác định anh Chinh, chị Loan chỉ còn thiếu nợ 960.000.000đ là chưa có đủ căn cứ.
5. Về căn nhà 146 đường Hùng Vương anh Chinh khai là do anh mua của vợ chồng ông Thập, bà Sen sau ngày vợ chồng đã thống nhất về tài sản bằng tiền riêng nên là tài sản riêng của anh. Việc xác minh làm rõ, anh Chinh sử dụng tiền chung của vợ chồng (chưa chia) hoặc doanh thu từ hoạt động của Doanh nghiệp tư nhân Loan-Chinh để mua hay đúng bằng tiền riêng của anh Chinh thì mới có căn cứ kết luận đó là tài sản chung của vợ chồng hay chỉ là tài sản riêng của anh Chinh. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa xác minh làm rõ vấn đề nêu trên, nhưng kết luận ngay căn nhà 146 đường Hùng Vương là tài sản chung của vợ chồng là chưa đủ căn cứ.
Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 297 và Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Hủy bản án dân sự phúc thẩm số 69 ngày 23-12-2005 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng và bản án dân sự sơ thẩm số 01/2005/DSST ngày 02-8-2005 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum về vụ án chia tài sản khi ly hôn giữa nguyên đơn là chị Lê Thị Ánh Loan với bị đơn là anh Lương Văn Chinh.
2. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum để xét xử sơ thẩm lại vụ án theo đúng quy định của pháp luật.
Lý do bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm bị hủy:
Tòa án cấp phúc thẩm có sự vi phạm tố tụng khi xét xử vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Tòa án các cấp đã không đưa một số chủ nợ hoặc người mắc nợ tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Chưa xem xét khách quan, toàn diện các chứng cứ của vụ án như: không yêu cầu nguyên đơn xuất trình các tài liệu liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mà chỉ căn cứ vào lời khai của nguyên đơn…