Quyết định giám đốc thẩm số 32/2005/ds-gđt ngày 06-12-2005 về vụ án “tranh chấp hợp đồng thuê tài sản”

Chủ đề   RSS   
  • #264976 29/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định giám đốc thẩm số 32/2005/ds-gđt ngày 06-12-2005 về vụ án “tranh chấp hợp đồng thuê tài sản”

    Số hiệu

    32/2005/DS-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm số32/2005/ds-gđt ngày 06-12-2005 về vụ án “tranh chấp hợp đồng thuê tài sản”

    Ngày ban hành

    06/12/2005

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Dân sự

     

    QUYếT ĐịNH GIÁM ĐốC THẩM Số32/2005/DS-GĐT

    NGÀY 06-12-2005 Về Vụ ÁN “TRANH CHấP 
    HợP ĐồNG THUÊ TÀI SảN”

     

    Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao

    ...

    Ngày 06 tháng 12 năm 2005, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự về việc tranh chấp hợp đồng thuê tài sản giữa các đương sự:

    Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Trinh, sinh năm 1927;

    Trú tại: Nhà số 3/9 tổ 3, ấp Cái Cam I, xã Mỹ Phước, huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long. (Bà Trinh được các con là Võ Thị Ngọc Trang, Võ Ngọc Trân, Võ Ngọc Thanh, Võ Ngọc Trâm, Võ Ngọc Thuý, Võ Thanh Tùng uỷ quyền);

    Bị đơn: Ông Nguyễn Văn Tiên, sinh năm 1929;

    Trú tại: ấp An Hương I, xã Mỹ An, huyện Măng Thít, tỉnh Vĩnh Long (ông Tiên chết năm 2001, anh Nguyễn Xuân Thọ, sinh năm 1972, đại diện theo uỷ quyền của bà Nguyễn Thị Thậm (vợ ông Tiên và là mẹ anh Thọ) và các anh, chị, em ruột của anh Thọ là những người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng);

    Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

    Anh Thái Hùng Tráng, sinh năm 1967; trú tại: Nhà số 48A đường Mậu Thân, phường 3, thị xã Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long;

    Nhận thấy:

    Ngày 01-12-1969 ông Võ Ngọc Tư (chồng bà Nguyễn Thị Trinh) và ông Nguyễn Văn Tiên có ký Tờ giao kèo cho mướn lò gạch.

    Tại Đơn xin thu hồi tài sản cho thuê ngày 10-3-1991 (có nội dung là đơn khởi kiện) và lời khai tiếp theo, bà Trinh khai rằng: Chồng bà và ông Võ Ngọc Tư có cho ông Nguyễn Văn Tiên mướn lò gạch. Năm 1980 ông Tư chết, ông Tiên có trả tiền thuê nhưng không đầy đủ. Bà yêu cầu được lấy lại một phần diện tích đất để sản xuất, còn lò gạch yêu cầu ông Tiên thực hiện đúng theo hợp đồng ban đầu.

    Tại lời khai ngày 15-4-1991 ông Tiên thừa nhận việc thuê lò gạch của ông Võ Ngọc Tư. Ông đồng ý trả tiền thuê và yêu cầu thoả thuận lại cụ thể về tiền thuê.

    Tại biên bản hoà giải thành 15-4-1991 bà Trinh chỉ yêu cầu ông Tiên trả tiền thuê và hai bên thoả thuận được với nhau về số ngói ông Tiên phải trả.

    Tại Quyết định công nhận hoà giải thành số 63/DSST ngày 29-4-1991, Toà án nhân dân huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long quyết định:

    "Chấp nhận sự thoả thuận giữa ông Nguyễn Văn Tiên là ông Tiên một năm hai miệng lò phải giao 40.000 viên (bốn chục ngàn viên) ngói đại loại I cho bà Nguyễn Thị Trinh. Được giao 4 lần trong năm:

    - Quý 1/1991: Giao 5.000 viên ngói đại loại I (năm ngàn).

    - Quý 2/1991: Giao 15.000 viên ngói đại (mười lăm ngàn).

    - Quý 3/1991: Giao 10.000 viên ngói đại (mười ngàn).

    - Quý 4/1991: Giao 10.000 viên ngói đại (mười ngàn)

    Qua năm khác cuối quý giao 10.000 viên ngói đại loại I. Thời gian thực hiện hợp đồng vĩnh viễn.

    - Về án phí: Mỗi bên nộp 30.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm. Cộng chung là 60.000 đồng (sáu chục ngàn).

    Quyết định này có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ký".

    Ngày 06-10-1993 ông Nguyễn Văn Tiên được Uỷ ban nhân dân huyện Măng Thiết cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 12.010m2 trong đó có diện tích đất đang tranh chấp.

    Ngày 31-3-1994 bà Trinh khiếu nại Quyết định công nhận hoà giải thành số 63/DSST ngày 29-4-1991 với lý do Quyết định công nhận hoà giải thành 
    số 63/DSST ngày 29-4-1991 ghi “thời gian thực hiện hợp đồng vĩnh viễn”là không đúng.

    Ngày 20-4-1994, Chánh án Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long ra Quyết định số 07/KN.DS kháng nghị Quyết định công nhận hoà giải thành số 63/DSST ngày 29-4-1991 của Toà án nhân dân huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long.

    Tại bản án giám đốc thẩm số 09/GĐT ngày 28-11-1994, Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long quyết định:

    "- Căn cứ Điều 77 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự

    - Chấp nhận kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long.

    - Huỷ toàn bộ Quyết định công nhận hoà giải thành số 63/DSST 
    ngày 29-4-1991 của Toà án nhân dân huyện Long Hồ.

    - Giao hồ sơ cho Toà dân sự Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long điều tra giải quyết và xét xử lại theo trình tự sơ thẩm".

    Sau khi Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long thụ lý vụ án và tiến hành lấy lời khai của đương sự.

    * Bà Trinh và anh Nguyễn Quốc Thới (người được bà Trinh và các con uỷ quyền ở giai đoạn này) yêu cầu:

    + Ông Tiên phải trả tiền thuê lò gạch (tính bằng ngói) từ năm 1994 đến năm 1996;

    + Yêu cầu ông Tiên trả lại phần lán trại, lò gạch cùng diện tích đất gắn liền (BL 24-30).

    * Ông Tiên thừa nhận lò gạch, lán trại và diện tích đất gắn liền là của ông Võ Ngọc Tư nhưng ông không đồng ý trả lại vì trong tờ giao kèo thoả thuận ông được thuê vĩnh viễn, gia đình ông đã bỏ nhiều công sức vào sửa chữa và sống chủ yếu bằng nghề sản xuất gạch, ngói (BL 14-16, 19-22).

    Ngày 02-10-1995 Uỷ ban nhân dân huyện Mang Thít ban hành Quyết định số 377/QĐ.UBH giải quyết khiếu nại của bà Trinh, trong đó có nội dung:

    "Nay bảo lưu giấy chứng nhận quyền sử dụng đất... của ông Nguyễn Văn Tiên, ngụ ấp An Hương I, xã Mỹ An, do Uỷ ban nhân dân huyện Mang Thít cấp ngày 06-10-1993..."

    Tại bản án số 11/DSST ngày 25-10-1996, Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xử:

    "Căn cứ điểm d khoản 1 Điều 45.

    Tạm đình chỉ giải quyết lò gạch, lán trại giữa bà Trình và ông Tiên.

    - Chí phí giám định và án phí sẽ được giải quyết khi đưa ra vụ án ra xét xử.

    - Chấp nhận sự thoả thuận về số nợ ngói đại giữa bà Trinh và ông Tiên với số lượng là 86.450 viên (tám sáu ngàn bốn trăm năm chục viên ngói đại) từ năm 1994 hết năm 1996 trả bằng hiện vật, nếu trả bằng tiền tính theo giá tại thời điểm thanh toán.

    Buộc ông Nguyễn Văn Tiên trả cho bà Nguyễn Thị Trinh số ngói là 86.450 viên.

    án phí dân sự sơ thẩm buộc ông Tiên nộp 432.250 đồng (bốn trăn ba mươi hai ngàn hai trăm năm mươi).

    Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn là 15 ngày kể từ ngày tuyên án".

    Ngày 08-11-1996 bà Nguyễn Thị Trinh kháng cáo cho rằng việc tranh chấp quyền sử dụng đất gắn với vật kiến trúc thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nên bà không đồng ý tạm đình chỉ.

    Ngày 07-11-1996 ông Nguyễn Văn Tiên kháng cáo xin giảm 1/2 số nợ ngói vì lò gạch hư không hoạt động.

    Tại bản án số 134/DSPT ngày 01-7-1997 Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xử:

    "1/ Bác kháng cáo của bà Nguyễn Thị Trinh. Bác đơn kháng cáo của ông Nguyễn Văn Tiên.

    2/ áp dụng Điều 45 khoản 1 điểm d Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự:

    Tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án tranh chấp lò gạch giữa nguyên đơn Nguyễn Thị Trinh với bị đơn Nguyễn Văn Tiên. Chi phí giám định và án phí sẽ được xem xét khi tiếp tục giải quyết vụ án.

    3/ Việc đòi lại quyền sử dụng phần đất gắn liền với lò gạch sẽ do Uỷ ban nhân dân các cấp tại địa phương xem xét giải quyết, theo đơn khiếu nại và các chứng từ kèm theo của bà Trinh (nếu bà Trinh yêu cầu)

    4/ Ông Nguyễn Văn Tiên có trách nhiệm trả cho bà Trinh số ngói thiếu nợ là 86.450 viên ngói đại. Thời hạn trả nợ trong vòng 1 tháng, kể từ 
    ngày 1-7-1997 nếu không có hiện vật, có thể trả bằng tiền theo thời giá.

    5/ Hai bên đương sự phải nộp án phí dân sự phúc thẩm, mỗi bên 50.000 đồng.

    6/ Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long tiếp tục theo dõi và giải quyết theo quy định của pháp luật, khi lý do tạm đình chỉ không còn nữa.

    7/ Bản án này là chung thẩm"

    Tại Quyết định số214/1998/QĐ-UBH ngày 30-5-1998, Uỷ ban nhân dân huyện Mang Thít giải quyết khiếu nại của của bà Tiên đối với Quyết định 
    số377/QĐ-UBH ngày 02-10-1995 của Uỷ ban nhân dân huyện Mang Thít với nội dung chính:

    “Nay bác đơn khiếu nại của bà Nguyễn Thị Trinh cư ngụ ấp Cái Cạn, xã Mỹ Phước, huyện Mang Thít.

    Lý do: Khiếu nại của bà không có cơ sở pháp lý để xem xét giải quyết.

    Bảo lưu Quyết định số 377/QĐ.UBH ngày 02-10-1995 của Uỷ ban nhân dân huyện Mang Thít. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 22490/QSDĐ cho ông Nguyễn Văn Tiên là đúng pháp luật hiện hành"...

    Bà Nguyễn Thị Trinh tiếp tục khiếu nại Quyết định số214/QĐ-UBH ngày 30-5-1998 của Uỷ ban nhân dân huyện Mang Thít.

    Tại Thông báo số643/TB-SĐC ngày 01-10-2003 Sở Địa chính tỉnh Vĩnh Long trả lời cho bà Trinh về việc không thụ lý đơn khiếu nại của công dân với lý do: "Việc khiếu nại của bà Nguyễn Thị Trinh, không phải tranh chấp về quyền sử dụng đất đối với ông Nguyễn Văn Tiên, mà bà yêu cầu huỷ "Tờ giao kèo cho mướn lò gạch" giữa ông Võ Ngọc Tư (chồng bà Nguyễn Thị Trinh) với ông Nguyễn Văn Tiên, để lấy lại tài sản gắn liền với đất. Do đó việc khiếu nại của bà Nguyễn Thị Trinh không thuộc thẩm quyền giải quyết của Uỷ ban nhân dân"...

    Thực tế, Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long đã tiếp tục giải quyết vụ án trước khi Sở Địa chính có Thông báo số643/TB-SĐC ngày 01-10-2003 nêu trên. Tại các biên bản lấy lời khai và đơn khiếu nại bà Trinh vẫn yêu cầu được lấy lại lò gạch, lán trại cho thuê cùng diện tích đất gắn liền. Anh Thọ (đại diện theo uỷ quyền của những người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Tiên) cũng vẫn thừa nhận lò gạch, lán trại cùng diện tích đất gắn liền có nguồn gốc của ông Nguyễn Văn Tiên thuê của ông Võ Ngọc Tư.

    Tại bản án sơ thẩm số 07/DSST ngày 15-12-2003, Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long quyết định:

    "áp dụng Điều 476, 477, 487 Bộ luật dân sự và Điều 12 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, xử:

    Chấp nhận yêu cầu cầu bà Nguyễn Thị Trinh đại diện cho các con của bà đòi ông Nguyễn Văn Tiên (do anh Nguyễn Xuân Thọ làm đại diện theo uỷ quyền) trả lại 02 lò gạch, đất gắn liền lò gạch là 7.660m2 đất xây dựng và 03 lán trại, tứ cận thửa đất như sau:

    - Bắc giáp sông Cổ Chiên;

    - Nam giáp tỉnh lộ 31 dài 98,9m;

    - Đông giáp ranh ông Nguyễn Văn Hùng 30m;

    - Tây giáp thửa 203, còn lại dài 93,5m;

    Huỷ một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do ông Nguyễn Văn Tiên đứng tên được cấp ngày 06-10-1993 tại chiết thửa số 190 A diện tích 7.660m2 đất xây dựng giao cho bà Nguyễn Thị Trinh làm đại diện theo uỷ quyền.

    - Công nhận bà Nguyễn Thị Trinh được quyền sở hữu 02 lò gạch, gồm:

    + Lò A: đường kính trong 6,6m đường kính ngoài 8m cao 6,77m giá trị sử dụng còn lại 30%.

    + Lò B: đường kính trong 6,50m đường kính ngoài 7,9m cao 7m giá trị sử dụng còn lại 25%.

    + Lán trại 1: Diện tích 128,74m2, giá trị còn lại 25%

    + Lán trại 2: Diện tích 251,92m2, giá trị còn lại 20%

    + Lán trại 3: Diện tích 238,37m2, giá trị còn lại 20%

    Tài sản lò gạch A, B và 03 lán trại gắn liền với phần đất lò gạch có diện tích 7.660m2 chiết thửa 190A nay là 203 toạ lạc tại ấp An Hương I, xã Mỹ An, huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long là của bà Trinh và các con bà, giao cho bà Trinh đại diện các con của bà phải có nghĩa vụ kê khai đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

    Về án phí dân sự sơ thẩm: Buộc anh Nguyễn Xuân Thọ nộp 2.970.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

    - Hoàn trả bà Nguyễn Thị Trinh 50.000 đồng theo phiếu thu 
    ngày 01-7-1995 của Phòng thi hành án tỉnh Vĩnh Long.

    Chi phí khảo sát và định giá bà Trinh phải chịu 1.428.000 đồng đã nộp xong.

    Báo cho các đương sự biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án".

    Ngày 23-12-2003 anh Nguyễn Xuân Thọ kháng cáo với lý do:

    1/ Trong Tờ giao kèo đã thoả thuận "Đằng chủ không được lấy lại lò trong bất cứ trường hợp nào"

    2/ Trong Tờ giao kèo không ghi diện tích đất.

    3/ Đất của Nhà nước chỉ có 5000m2, phần đất còn lại của gia đình anh sang nhượng, Toà án cấp sơ thẩm lấy luôn 2600m2 để giao cho bà Tiên. Lán trại lò gạch do cha anh xây dựng mới hoàn toàn.

    Tại bản án phúc thẩm số 120/DSPT này 21/4/2004, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định: "Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

    áp dụng khoản 1 Điều 69 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Điều 467, 477, 487, 488 Bộ luật dân sự, tuyên xử:

    Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị Trinh đại diện cho các con của bà đòi ông Nguyễn Văn Tiên do anh Nguyễn Xuân Thọ làm đại diện theo uỷ quyền, trả lại 02 lò gạch, đất gắn liền lò gạch là 7.660m2 đất xây dựng và 03 lán trại, tứ cận thửa đất như sau:

    - Bắc giáp sông Cổ Chiên;

    - Nam giáp tỉnh lộ 31 dài 989m;

    - Đông giáp ranh ông Nguyễn Văn Hùng 30m;

    - Tây giáp thửa 203, còn lại dài 93,5m;

    Huỷ một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Uỷ ban nhân dân huyện Măng Thít cấp cho ông Nguyễn Văn Tiên ngày 06-10-1993 tại chiết thửa số 190 A diện tích 7.660m2 đất xây dựng, giao cho bà Nguyễn Thị Trinh làm đại diện theo uỷ quyền.

    - Bà Nguyễn Thị Trinh được quyền sở hữu 02 lò gạch và 03 lán trại, gồm:

    + Lò A: Đường kính trong 6,6m đường kính ngoài 8m; cao 6,77m. Giá trị sử dụng còn 30%.

    + Lò B: Đường kính trong 6,5m đường kính ngoài 7,9m; cao 7m. Giá trị sử dụng còn 25%.

    + Lán trại 1: Diện tích 128,74m2. Giá trị sử dụng còn lại 25%

    + Lán trại 2: Diện tích 251,92m2. Giá trị sử dụng còn lại 20%

    + Lán trại 3: Diện tích 238,37m2. Giá trị sử dụng còn lại 20%

    Hai lò gạch, ba lán trại gắn liền với phần đất lò gạch diện tích 7.660m2, chiết thửa 190 A nay là 203 toạ lạc tại ấp An Hương 1, xã Mỹ An, huyện Măng Thít, tỉnh Vĩnh Long là của bà Trinh và các con của bà Trinh được quyền kê khai đăng ký quyền sử dụng đất theo pháp luật quy định.

    Anh Nguyễn Xuân Thọ phải nộp án phí dân sự sơ thẩm 2.970.000 đồng và án phí dân sự phúc thẩm 50.000 đồng (đã nộp theo biên lai thu tiền số 002500 ngày 24-12-2003 tại Phòng Thi hành án tỉnh Vĩnh Long là 50.000 đồng).

    Hoàn trả cho bà Nguyễn Thị Trinh 50.000 đồng theo phiếu thu 
    ngày 1-7-1995 tại Phòng Thi hành án tỉnh Vĩnh Long.

    Bà Trinh phải nộp 1.428.500 đồng tiền chi phí khảo sát và định giá, đã nộp xong.

    Bản án này là chung thẩm".

    Ngày 12-7-2004 anh Nguyễn Xuân Thọ có đơn đề nghị giám đốc thẩm với các lý do:

    1/ Việc giải quyết vụ án ở cấp sơ thẩm sai về thủ tục tố tụng - cùng một thẩm phán, một hội thẩm nhân dân tham gia xét xử 2 lần;

    2/ Bà Trinh có 3 người con ở nước ngoài gồm chị Võ Thị Ngọc Trang, anh Võ Văn Trân, anh Võ Ngọc Thanh chỉ uỷ quyền cho bà Trinh và chị Trâm, chị Thuý, anh Tùng hưởng di sản thừa kế nhưng uỷ quyền của chị Trang, anh Trân chưa hợp pháp hoá lãnh sự;

    3/ Trên phần đất 7.660m2 có nhiều hộ sinh sống, trong đó có bà Phạm Thị Bình có đơn khiếu nại để đòi một phần đất trong 7.660m2 nhưng không được triệu tập tham gia tố tụng.

    4/ Diện tích đất 7.660m2 gia đình anh sử dụng liên tục, đóng thuế đầy đủ từ năm 1969, kê khai theo chỉ thị 299 của Thủ tướng Chính phủ và đã được cấp sổ đỏ là của gia đình anh.

    Tại Quyết định kháng nghị số136/2005/DS-KN ngày 13-10-2005 Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã kháng nghị bản án phúc thẩm số 120/DSPT 
    ngày 21-4-2004 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và đề nghị Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm huỷ bản án phúc thẩm nêu trên giao hồ sơ cho Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

    Tại phiên toà giám đốc thẩm, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao.

    xét thấy:

    Có đủ cơ sở xác định ông Nguyễn Văn Tiên là người thuê lò gạch của ông Võ Ngọc Tư. Việc ông Tiên được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bao gồm cả đất có lò gạch, trên cơ sở ông Tiên tự kê khai chứ không thể hiện đã có sự chuyển giao hợp pháp quyền sử dụng đất sang cho ông Tiên. Vì vậy, nay bên cho thuê đòi lại tài sản cho thuê là lò gạch thì có quyền đòi lại cả quyền sử dụng đất gắn với lò gạch. Biên bản xác định vị trí đất gắn liền với hai lò gạch đang tranh chấp ngày 17-5-1996 có mặt ông Tiên, bà Trinh và cả anh Thới (người được bà Trinh uỷ quyển) không chỉ xác định diện tích đất gắn liền 02 lò gạch và lán trại là 5.011,57 m2 mà còn xác định rõ kích thước, vị trí của diện tích đất gắn liền lò gạch. Sau này bà Trinh đòi tăng thêm diện tích đất gắn liền 2 lò gạch, lán trại mà không đưa ra được chứng cứ gì mới. Lời khai của những người làm chứng về ranh giới đất của bà Trinh không thống nhất: Ông Trần Văn Lắm khai phần dưới giáp ranh với hộ ông Nguyễn Xuân Hùng, còn ông Ngô Văn Mãi, ông Tạ Văn Châu, ông Lý Phùng Sâm lại khai giáp với phần đất của Đình Cá Lóc. Bản án sơ thẩm số 07/DSST ngày 15-12-2003 của Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long và bản án phúc thẩm số 120/DSPT ngày 21-4-2004 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xác định diện tích đất gắn liền lò gạch là 7.660m2 là không có căn cứ. Vì vậy, cần phải giao cho Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao xét xử phúc thẩm lại theo hướng nếu không có đủ chứng cứ chứng minh diện tích đất khác với diện tích ông Tiên và bà Trinh đã xác định khi ông Tiên còn sống thì phải xác định diện tích đất gắn liền lò gạch chỉ là 5.011,57m2.

    Ngoài ra, ông Võ Ngọc Tư đã chết, bà Nguyễn Thị Trinh và 6 người con đều thuộc hàng thừa kế thứ nhất, chỉ có bà Trinh đứng đơn khởi kiện, còn 6 người con uỷ quyền cho bà Trinh, do đó cần xác định 6 người con là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.

    Khi bà Trinh khởi kiện, ông Tiên tham gia tố tụng với tư cách bị đơn. Năm 2001 ông Tiên chết, bà Thậm cùng 11 người con là người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng nên cần xác định trong bản án họ là bị đơn để bảo đảm sự chính xác.

    Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 291; khoản 3 Điều 297; khoản 2 Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự;

    quyết định:

    1. Huỷ bản án phúc thẩm số 120/DSPT ngày 21-4-2004 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh giải quyết việc tranh chấp hợp đồng thuê tài sản giữa nguyên đơn bà Nguyễn Thị Trinh với bị đơn ông Nguyễn Văn Tiên.

    2. Giao hồ sơ cho Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

    ____________________________________________

    - Lý do huỷ bản án phúc thẩm:

    1. Chưa có căn cứ để xác định diện tích đất gắn với tài sản mà phía nguyên đơn yêu cầu trả lại;

    2. Cần đưa thêm những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng và xác định lại tư cách bị đơn trong vụ án.

    - Nguyên nhân dẫn đến việc huỷ bản án phúc thẩm:

    1. Thiếu sót trong việc thu thập, đánh giá chứng cứ;

    2. Thiếu sót trong việc vận dụng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về người tham gia tố tụng.

     

    Cập nhật bởi phamthanhhuu ngày 29/05/2013 10:08:15 SA
     
    4119 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận