Số hiệu
|
15/2006/DS-GĐT
|
Tiêu đề
|
Quyết định giám đốc thẩm số15/2006/ds-gđt ngày 06-6-2006 về vụ án “tranh chấp quyền sở hữu tài sản”
|
Ngày ban hành
|
06/06/2006
|
Cấp xét xử
|
Giám đốc thẩm
|
Lĩnh vực
|
Dân sự
|
QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM SỐ15/2006/DS-GĐT NGÀY 06-6-2006 VỀ VỤ ÁN “TRANH CHẤP
QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN”
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
...
Ngày 6 tháng 6 năm 2006, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự tranh chấp về quyền sở hữu tài sản giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Ngô Thị Huôi, sinh năm 1930.
Trú tại: 240 Nguyễn Chí Thanh, phường 3, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh. Uỷ quyền cho bà Đỗ Thị Linh Chi, sinh năm 1976, trú tại: 309/39 Tôn Thất Thuyết, quận 4, thành phố Hồ Chí Minh làm đại diện.
Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Nghiết, sinh năm 1968.
Trú tại: 230/8/73 Vĩnh Viễn, phường 14, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Hàng Lưu Kim, sinh năm 1957;
Trú tại: 11747E Alaska Ave, Aurora, Co 80012USA.
2. Ông Trần Thanh Hoàng, sinh năm 1957;
Trú tại: 10160 Depew S.T Westminster Co 80020 USA.
3. Bà Hàng Huệ Hà, sinh năm 1982;
Trú tại: 240 Nguyễn Chí Thanh, phường 3, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh.
4. Bà Ngô Mỹ Anh, sinh năm 1945;
Trú tại: 240 Nguyễn Chí Thanh, phường 3, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh.
5. Ông Nguyễn Văn Ba (Ngô Văn Ten), sinh năm 1930;
6. Bà Mã Thị Hoa, sinh năm 1939;
Cùng ngụ tại số 230/873B Vĩnh Viễn, phường 4, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh.
NHẬN THẤY:
Tại đơn khởi kiện đề ngày 22-8-2001, và trong quá trình giải quyết vụ án, bà Ngô Thị Huôi trình bày: Bà và ông Hàng Việt (chết ngày 23-11-1995) là vợ chồng chung sống từ năm 1950, có hai con chung là Trần Thanh Hoàng, Hàng Lưu Kim và một con nuôi là Hàng Huệ Hà; hai con Thanh Hoàng và Lưu Kim hiện đang sống tại Hoa Kỳ. Năm 1950 bà và ông Hàng Việt thuê căn nhà số 112 Nhân Vị, sau đổi thành Trần Hùng Quân (nay là số 240 Nguyễn Chí Thanh, phường 3, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh) của ông Trương Văn Bền để ở.
Sau giải phóng vì căn nhà trên thuộc diện nhà do nhà nước quản lý nên thay vì ký hợp đồng với chủ nhà, vợ chồng bà tiếp tục ký hợp đồng thuê nhà với đội quản lý nhà thuộc ban xây dựng nhà đất quận 10 (hợp đồng thuê nhà số 325 ngày 05-11-1982 do chồng bà tên là Hàng Việt đứng tên thuê). Đến năm 1985, vợ chồng bà tiến hành thủ tục mua dứt căn nhà trên nhân đợt Nhà nước hoá giá nhà. Vì tuổi già sức yếu và không biết tiếng Việt nên khi mua nhà vợ chồng bà có nhờ bà Ngô Mỹ Anh (là em ruột bà) đi làm thủ tục và ghi tên Nguyễn Thị Nghiết (là cháu ruột của bà) tại các giấy tờ mua bán nhà. Vợ chồng bà nghĩ rằng nếu ký tên Nguyễn Thị Nghiết thì sau này sẽ thuận tiện cho vợ chồng bà trong việc giải quyết các vấn đề nhà cửa với các cơ quan chức năng, khi công việc đòi hỏi phải đi lại nhiều lần để thực hiện các thủ tục có liên quan. Do đó, hợp đồng mua bán nhà và giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà hiện nay vợ chồng bà đang cất giữ đều đứng tên Nguyễn Thị Nghiết mặc dù Nguyễn Thị Nghiết không phải là sở hữu chủ. Vợ chồng bà mới là chủ sở hữu thật sự căn nhà trên và vợ chồng bà đã sống tại căn nhà này từ trước đến nay, giữ toàn bộ hồ sơ nhà. Ngoài ra, trong quá trình giải quyết vụ án bà còn khai bà là người nộp tiền mua hoá giá nhà, ngày nộp tiền hoá giá vì bà Ngô Mỹ Anh không có nhà nên bà nhờ ông Nguyễn Văn Ba (là em trai bà và là bố của Nguyễn Thị Nghiết) chở bà đi và ký tên dùm vào biên lai nộp tiền. Do cháu bà là Nguyễn Thị Nghiết tranh chấp nên bà yêu cầu Toà án công nhận căn nhà 240 Nguyễn Chí Thanh, phường 3,
quận 10, thành phố Hồ Chí Minh thuộc sở hữu của vợ chồng bà, bà đồng ý giúp cho Nguyễn Thị Nghiết 30 lượng vàng để làm vốn và bà yêu cầu Nguyễn Thị Nghiết phải sang tên nhà cho bà.
Bà Nguyễn Thị Nghiết trình bày: Năm 1978 bà nhập hộ khẩu vào căn nhà 240 Nguyễn Chí Thanh của cô bà là bà Ngô Thị Huôi. Cũng năm 1978 bố mẹ bà là ông Nguyễn Văn Ba và bà Mã Thị Hoa bỏ tiền ra mua hoá giá căn nhà trên và để cho bà đứng tên chủ sở hữu nhà. Do bà Ngô Thị Huôi đang ở trong nhà này để chờ xuất cảnh, nên gia đình bà để bà Ngô Thị Huôi ở và giữ giấy tờ nhà. Sau đó, tại biên bản phiên toà sơ thẩm bà lại xác định bà nhập hộ khẩu về căn nhà 240 Nguyễn Chí Thanh từ năm 1983 và việc nhập hộ khẩu chỉ là hình thức trên giấy tờ chứ bà không có ở đó ngày nào. Nay bà Ngô Thị Huôi yêu cầu bà sang tên nhà cho bà Ngô Thị Huôi, nhưng bà không đồng ý. Bà yêu cầu bà Ngô Thị Huôi trả căn nhà và giấy tờ căn nhà số 240 Nguyễn Chí Thanh, phường 3, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh cho bà.
Ông Nguyễn Văn Ba và bà Mã Thị Hoa trình bày: ông và bà Ngô Thị Huôi là chị em ruột, căn nhà 240 Nguyễn Chí Thanh, phường 3, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh là do vợ chồng ông mua hoá giá năm 1978 cho con là Nguyễn Thị Nghiết đứng tên chủ sở hữu vì ông đã đứng tên sở hữu căn nhà 230/873 đường Vĩnh Viễn, phường 4, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh, ông là người nộp tiền mua nhà nhưng do đã lâu nên ông không còn nhớ số tiền mua nhà. Toàn bộ hồ sơ thủ tục mua hoá giá nhà 240 đường Nguyễn Chí Thanh, phường 3, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh do ông đứng ra làm, ông không nhờ ai viết hoặc ký tên dùm; giấy tờ nhà hiện bà Ngô Thị Huôi đang giữ. Nay ông và vợ ông là bà Mã Thị Hoa xác định căn nhà 240 đường Nguyễn Chí Thanh, phường 3,
quận 10, thành phố Hồ Chí Minh thuộc sở hữu của Nguyễn Thị Nghiết và yêu cầu bà Ngô Thị Huôi phải trả lại căn nhà trên cho Nguyễn Thị Nghiết.
Bà Ngô Mỹ Anh trình bày: Bà là em ruột của bà Ngô Thị Huôi và ông Nguyễn Văn Ba, căn nhà số 240 đường Nguyễn Chí Thanh, phường 3, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh do ông Hàng Việt và bà Ngô Thị Huôi thuê ở và trả tiền thuê nhà. Ngày 07-3-1987 bà Ngô Thị Huôi nhờ bà ký tên Nguyễn Thị Nghiết tại hợp đồng thuê căn nhà số 240 đường Nguyễn Chí Thanh, phường 3, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh và làm hồ sơ mua hoá giá căn nhà nói trên, do đó toàn bộ đơn từ, chữ ký tên Nghiết tại hồ sơ hoá giá là do bà (Ngô Mỹ Anh) viết và ký, còn tiền mua nhà là của bà Ngô Thị Huôi, ông Hàng Việt nên căn nhà trên thuộc sở hữu của ông Hàng Việt, bà Ngô Thị Huôi.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 2009/DSST ngày 7-11-2002 Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quyết định: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, xử:
1. Công nhận căn nhà 240 Nguyễn Chí Thanh, phường 3, quận 10 hiện bà Nguyễn Thị Nghiết đứng tên là do bà Ngô Thị Huôi bỏ tiền ra mua.
2. Bà Nguyễn Thị nghiết phải chuyển quyền sở hữu căn nhà số 240 Nguyễn Chí Thanh, quận 10 cho bà Ngô Thị Huôi trong thời hạn 1 tháng, kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật.
Nếu quá hạn trên, bà Nghiết không thực hiện, bà Huôi được quyền liên hệ với các cơ quan có thẩm quyền để chuyển quyền sở hữu căn nhà 240 Nguyễn Chí Thanh, quận 10 từ tên bà Nghiết sang tên bà Huôi.
3. Ghi nhận sự tự nguyện của bà Huôi sau khi án có hiệu lực hỗ trợ bà Nghiết một lần là 15 lượng vàng SJC. Việc giao nhận vàng và chuyển quyền sở hữu nhà được thực hiện cùng lúc tại phòng thi hành án thành phố Hồ Chí Minh.
Án phí dân sự sơ thẩm bà Nguyễn Thị Nghiết phải nộp 24.666.000 đồng.
Hoàn lại bà Huôi 6.000.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai
số 25497 ngày 11-10-2001.
Ngày 19-11-2002 bà Nguyễn Thị Nghiết và ông Nguyễn Văn Ba có đơn kháng cáo yêu cầu công nhận nhà 240 Nguyễn Chí Thanh thuộc quyền sở hữu của bà Nguyễn Thị Nghiết.
Tại bản án dân sự phúc thẩm số 45/DSPT ngày 10-3-2003 Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định: Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Nguyễn Thị Nghiết và ông Nguyễn Văn Ba, sửa án sơ thẩm, xử:
Bác yêu cầu khởi kiện “Tranh chấp quyền sở hữu nhà” của bà Ngô Thị Huôi.
Công nhận căn nhà số 240 Nguyễn Chí Thanh, phường 3, quận 10 hiện bà Ngô Thị Huôi đang quản lý thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bà Nguyễn Thị Nghiết theo giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà số 430 ngày 26-8-1991 của Sở nhà đất thuộc Uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.
Buộc bà Ngô Thị Huôi cùng các thành viên đang ở trong căn nhà phải giao trả căn nhà nói trên và toàn bộ giấy tờ bản chính của căn nhà này, hiện bà Huôi đang giữ cho bà Nguyễn Thị Nghiết sở hữu.
Ghi nhận việc bà Nguyễn Thị Nghiết và ông Nguyễn Văn Ba hỗ trợ cho bà Ngô Thị Huôi 15 lượng vàng SJC để bà Huôi giao nhà và tạo dựng chỗ ở mới.
Về án phí: Bà Ngô Thị Huôi phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là 24.666.000đ. Khoản dự phí dân sự sơ thẩm bà Huôi đã nộp 6.000.000đ tại biên lai số 025497 ngày 11-10-2001 của phòng thi hành án thành phố Hồ Chí Minh được trừ vào án phí dân sự sơ thẩm.
Hoàn trả bà Nghiết và ông Ba mỗi người 50.000 đồng dự phí kháng cáo theo biên lai thu số 000875, 000876 ngày 20-11-2002.
Ngày 16-9-2003 bà Ngô Thị Huôi có đơn khiếu nại với nội dung án phúc thẩm xử oan sai, buộc bà phải ra khỏi căn nhà của bà quản lý, sử dụng từ
năm 1950 cho đến nay. Bà xin xem xét lại toàn bộ hồ sơ vụ án và kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm để giải oan cho gia đình bà.
Theo công văn số985/TB-THA ngày 22-4-2004 của Phòng thi hành án thành phố Hồ Chí Minh thì ngày 10-9-2003 cơ quan Thi hành án đã thi hành xong bản án phúc thẩm nêu trên.
Tại Quyết định số 11/QĐ/KNGĐT-V5 ngày 02-3-2006 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm nêu trên đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm: Huỷ bản án dân sự sơ thẩm số 2099/DSST ngày 07-11-2002 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và bản án dân sự phúc thẩm số 45/DSPT
ngày 10-3-2003 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh. Giao hồ sơ cho Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử lại từ sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Tại phiên toà giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán xem xét kháng nghị và giải quyết theo quy định của pháp luật.
XÉT THẤY:
Căn nhà số 240 đường Nguyễn Chí Thanh có nguồn gốc thuộc nhà cải tạo cho thuê, do bà Ngô Thị Huôi thuê của chủ cũ từ năm 1950. Sau giải phóng căn nhà trên thuộc diện nhà do Nhà nước quản lý nên ngày 05-11-1982 vợ chồng bà Huôi tiếp tục ký hợp đồng thuê nhà với đội quản lý nhà thuộc Ban xây dựng nhà đất quận 10 (hợp đồng thuê nhà do chồng bà là ông Hàng Việt đứng tên thuê). Trong Đơn xin mua nhà đề ngày 5-2-1987 và Đơn xin cam kết đề ngày 9-2-1987 của bà Huôi có nội dung: Chúng tôi bằng lòng nhường cho cháu tôi là Nguyễn Thị Nghiết đứng tên mua căn nhà số 240 đường Nguyễn Chí Thanh... đơn có xác nhận của Uỷ ban nhân dân phường, để bà Nguyễn Thị Nghiết được mua nhà hoá giá; Đồng thời bà Huôi đã cho bà Nghiết nhập khẩu vào nhà 240 Nguyễn Chí Thanh, phường 3, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh và ngày 7-3-1987 gia đình bà Huôi để bà Nghiết đứng tên thuê nhà số 240 Nguyễn Chí Thanh, phường 3, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó, ngày 20-4-1987 bà Nghiết đứng tên (bên mua nhà) trong Hợp đồng mua bán nhà số 000648/HĐMBN với Uỷ ban nhân dân quận 10 thành phố Hồ Chí Minh và cùng ngày ông Nguyễn Văn Ba là cha ruột của bà Nghiết đã ký tên vào Hoá đơn thanh toán tiền mua nhà hoá giá với tư cách người nộp tiền mua nhà. Sau đó, ngày 15-8-1991 bà Nghiết đã được sở nhà đất thành phố Hồ Chí Minh cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà số 430/HGN.
Như vậy, mặc dù nguồn gốc căn nhà do nhà nước quản lý cho bà Huôi thuê nhưng bà Huôi đã nhường quyền thuê và mua hoá giá nhà cho cháu là bà Nghiết. Việc nhường quyền này là hoàn toàn tự nguyện. Việc thanh toán tiền mua hoá giá nhà do cha ruột của bà Nghiết là ông Nguyễn Văn Ba nộp và ký tên. Khi Uỷ ban nhân dân ký hợp đồng bán nhà cho bà Nghiết thì vợ chồng bà Huôi và các thành viên trong gia đình bà Huôi không ai thắc mắc khiếu nại gì. Đến năm 2001 bà Huôi mới khởi kiện tranh chấp quyền sở hữu nhà với bà Nghiết. Do đó, không có căn cứ để xác định hợp đồng mua bán nhà giữa Uỷ ban nhân dân quận 10 thành phố Hồ Chí Minh với bà Nguyễn Thị Nghiết là không đúng pháp luật và không có đủ căn cứ để xác định bà Huôi là chủ sở hữu căn nhà nói trên.
Toà án cấp phúc thẩm đã xử bác yêu cầu khởi kiện tranh chấp quyền sở hữu nhà của bà Huôi; công nhận căn nhà số 240 đường Nguyễn Chí Thanh, phường 3, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh hiện bà Huôi đang quản lý thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bà Nghiết và buộc bà Huôi cùng các thành viên đang ở trong căn nhà phải giao trả căn nhà nói trên và toàn bộ giấy tờ bản chính của căn nhà này, hiện bà Huôi đang giữ cho bà Nghiết là có căn cứ.
Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 291; khoản 1 Điều 297 Bộ luật tố tụng dân sự.
QUYẾT ĐỊNH:
Không chấp nhận kháng nghị số 11/QĐ/KNGĐT-V5 ngày 02-3-2006 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và giữ nguyên bản án dân sự phúc thẩm số 45/DSPT ngày 10-3-2003 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã xét xử việc tranh chấp về quyền sở hữu tài sản (nhà) giữa nguyên đơn là bà Ngô Thị Huôi với bị đơn là bà Nguyễn Thị Nghiết.
____________________________________________
- Lý do không chấp nhận kháng nghị:
Quyết định của bản án phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là đúng pháp luật, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ của vụ án.
Cập nhật bởi phamthanhhuu ngày 29/05/2013 01:45:01 CH