Số hiệu
|
14/2005/HĐTP-DS
|
Tiêu đề
|
Quyết định giám đốc thẩm số14/hđtp-ds ngày 29-3-2005 về vụ án “đòi nợ”
|
Ngày ban hành
|
29/03/2005
|
Cấp xét xử
|
Giám đốc thẩm
|
Lĩnh vực
|
Dân sự
|
QUYếT ĐịNH GIÁM ĐốC THẩM Số14/HĐTP-DS
NGÀY 29-3-2005 Về Vụ ÁN “ĐÒI Nợ”
Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
...
Ngày 29 tháng 3 năm 2005, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án đòi nợ giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Như Nguyện, trú tại 24/1 Hiệp Bình, khu phố 8, phường Hiệp Bình Chánh, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh;
Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Kim Liêng
Ông Nguyễn Phước ái Huy,
Cùng trú tại 274 Hai Bà Trưng, phường Tân Định, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh;
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1- Bà Nguyễn Thị Như Nguyệt, trú tại 146/37/28 Vũ Tùng, phường 3, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh;
2- Bà Trương Thị Hoàng Trang, trú tại 75/11 Sư Vạn Hạnh, phường 12, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh;
3- Anh Nguyễn Hồng Châu, trú tại 115/16 Phan Đăng Lưu, phường 7, quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh;
4- Chị Phạm Thị Hồng Vũ, trú tại C15/5 Lê Hồng Phong, phường 12, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh;
Nhận thấy:
Theo lời trình bày của bà Nguyễn Thị Như Nguyệt thì: Bà Nguyệt có cho ông Huy và bà Liêng vay tiền nhiều lần để ông Huy và bà Liêng kinh doanh. Việc vay mượn tiền theo nguyên tắc: Bà Liêng viết giấy nợ, tiền trả góp hàng ngày, khi trả hết nợ vốn và lãi thì bà Nguyện trả giấy nợ cho bà Liêng. Hai bên đã thực hiện việc vay và trả nhiều khoản tiền. Hiện nay, ông Huy và bà Liêng còn nợ bà Nguyện số tiền trong 4 giấy mượn tiền gồm:
1- Giấy mượn tiền ngày 25-10-1995 vay 100.000.000 đồng.
2- Giấy mượn tiền ngày 26-01-1996 vay 12.000 USD.
3- Giấy mượn tiền ngày 08-7-1996 vay 10.000 USD.
4- Giấy mượn tiền ngày 19-7-1996 vay 5000 USD.
Bà Nguyện yêu cầu bà Liêng, ông Huy trả số tiền của 4 giấy nợ nêu trên là 100.000.000 đồng và 27.000 USD cùng với tiền lãi theo quy định.
Bị đơn là bà Nguyễn Thị Kim Liêng trình bày: Giữa vợ chồng bà Liêng và bà Nguyện có giao dịch tiền bạc với nhau nhiều lần. Bốn giấy nợ mà bà Nguyện xuất trình có chữ ký của bà Liêng nhưng lâu quá bà Liêng cũng không khẳng định và cũng không phủ nhận chữ ký trong các giấy nợ đó và cũng không yêu cầu tái giám định. Việc trả tiền cho bà Nguyện đều do bà Nguyệt (là chị của bà Nguyện chi trả). Bà Liêng không biết chính xác từng khoản nợ. Bà Liêng cho rằng theo sổ sách do bà Nguyệt ghi thì tổng số tiền chi trả cho bà Nguyện nhiều hơn số tiền nợ là trên 400.000.000 đồng. Do đó, bà Liêng yêu cầu bà Nguyện phải trả lại cho là Liêng 400.000.000 đồng chứ không phải bà Liêng còn nợ theo yêu cầu của bà Nguyện.
Ông Nguyễn Phước ái Huy thống nhất với lời trình bày của bà Liêng.
Bà Nguyễn Thị Như Nguyệt trình bày: Bà Nguyệt là kế toán của Công ty Viễn Cảnh do ông Huy làm giám đốc. Bà Nguyệt có giới thiệu bà Nguyện cho bà Liêng, ông Huy. Việc vay mượn tiền giữa hai bên có làm giấy tờ. Bà Nguyệt chỉ là người ghi chép việc thu chi hàng ngày theo sự chỉ đạo của ông Huy, bà Liêng. Trong 18 cuốn sổ thu chi chỉ có một vài lần bà Nguyện ký tên nhận tiền, còn toàn bộ việc nhận tiền đi trả cho bà Nguyện chủ yếu là anh Châu và chị Vũ thực hiện. Tất cả sổ sách đều được ghi chép rõ ràng nên không thể nói rằng bà Nguyệt là người chi sai. Bà Nguyệt yêu cầu Toà án giải quyết theo pháp luật đối với yêu cầu của bà Nguyện.
Anh Nguyễn Hồng Châu trình bày: Việc vay nợ giữa các bên như thế nào anh không biết. Khi được kêu đem giao tiền thì anh Châu đem giao chứ không biết là tiền đó trả cho số nợ nào. Nay anh Châu yêu cầu Toà án giải quyết theo pháp luật.
Chị Phạm Thị Hồng Vũ trình bày: Nhiệm vụ của chị Vũ cũng giống như của anh Châu. Chị Vũ cũng chỉ biết kêu giao tiền cho ai thì giao chứ không biết giao tiền đó là tiền gì, trả cho khoản nợ nào. Chị Vũ yêu cầu Toà án giải quyết theo pháp luật.
Bà Trương Thị Hoàng Trang trình bày: Bà Trang không liên quan gì đối với 4 giấy nợ mà bà Nguyệt đang kiện đòi bà Liêng, ông Huy.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 78/DSST ngày 8-9-1999, Toà án nhân dân quận 1, thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
- Bà Nguyễn Thị Kim Liêng và ông Nguyễn Phước ái Huy có trách nhiệm trả cho bà Nguyện số nợ vốn là 397.000.000 đồng và lãi là 192.097.000 đồng, tổng cộng là 589.097.000 đồng.
- Tiếp tục duy trì quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
số 08/KB ngày 20-10-1999 và quyết định số 14/QĐKB ngày 25-5-1999 để đảm bảo việc thi hành án.
- án phí dân sự sơ thẩm là 19.781.940 đồng ông Huy và bà Liêng nộp, hoàn dự phí cho nguyên đơn theo biên lai số 015357 ngày 12-8-1998 là 7.754.000 đồng.
Ngày 20-9-1999 bà Nguyễn Thị Kim Liêng kháng cáo.
Tại bản án dân sự phúc thẩm số 541/DSPT ngày 14-4-2000, Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
- Bà Nguyễn Thị Kim Liêng và ông Nguyễn Phước ái Huy có trách nhiệm trả cho bà Nguyện số nợ vốn là 100.000.000 đồng và 27.000 USD, tiền lãi là 72.420.000 đồng.
- Bà Nguyễn Thị Như Nguyện có trách nhiệm nộp số tiền lãi 171.316.000 đồng đã thu được do giao dịch trái pháp luật để sung công quỹ Nhà nước.
- Duy trì quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 08/KB
ngày 20-10-1999 và quyết định số 14/QĐKB ngày 25-5-1999 của Toà án nhân dân quận 1, thành phố Hồ Chí Minh để đảm bảo việc thi hành án.
- án phí dân sự sơ thẩm ông Nguyễn Phước ái Huy và bà Nguyễn Thị Kim Liêng phải nộp là 18.845.320 đồng.
- Hoàn lại tiền tạm nộp án phí dân sự sơ thẩm cho bà Nguyễn Thị Như Nguyện là 7.754.000 đồng theo biên lai số 015357 ngày 12-8-1998.
- Hoàn lại tiền tạm nộp án phí dân sự cho bà Nguyễn Thị Kim Liêng là 50.000 đồng theo biên lai số 016641 ngày 20-9-1999.
Sau khi xét xử phúc thẩm bà Nguyễn Thị Kim Liêng có đơn khiếu nại.
Tại Quyết định số 119 ngày 21-11-2000, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã kháng nghị bản án phúc thẩm nêu trên.
Tại Quyết định số 28 ngày 21-2-2001, Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao đã quyết định: Huỷ bản án dân sự sơ thẩm số 78/DSST ngày 8-9-1999 của Toà án nhân dân quận 1, thành phố Hồ Chí Minh và bản án dân sự phúc thẩm
số 541/DSPT ngày 14-4-2000 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Giao hồ sơ về Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 494/DSST ngày 11-4-2002 Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã xử:
1) Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Như Nguyện. Bà Nguyễn Thị Kim Liêng và ông Nguyễn Phước ái Huy có trách nhiệm trả cho bà Nguyện các khoản tiền sau:
- 100.000.000 đồng tiền vốn (theo giấy nợ ngày 25-10-1995 và 97.350.000 đồng tiễn lãi.
- 401.805.000 đồng tương đương 27.000 USD (theo các giấy nợ
ngày 26-01-1995 + 08-7-1996 và 19-7-1996).
Tổng cộng là 608.155.000 đồng.
2) Duy trì quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 08/KB ngày 20-10-1999 và quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
số 14/QĐKB ngày 25-5-1999 của Toà án nhân dân quận 1, thành phố Hồ Chí Minh để đảm bảo việc thi hành án.
3) Bà Nguyện có trách nhiệm nộp số tiền lãi đã nhận của 27.000 USD là 186.275.000 đồng để sung công quỹ Nhà nước.
4) Bác yêu cầu của bà Liêng, ông Huy đòi bà Nguyện số tiền 400.000.000 đồng mà cho rằng bà Nguyện đã nhận vượt quá số tiền nợ.
5) án phí dân sự sơ thẩm bà Liêng và ông Huy phải nộp là 35.163.000 đồng. Hoàn lại tiền án phí dân sự sơ thẩm tạm nộp 7.754.000 đồng cho bà Nguyện theo biên lai số 015375 ngày 12-8-1998 của Đội thi hành án quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.
- Ngày 23-4-2002 bà Liêng và ông Huy kháng cáo.
- Ngày 07-01-2003 ông Huy và bà Liêng kháng cáo bổ sung: Yêu cầu đối chiếu lại toàn bộ các khoản tiền vay và trả từ năm 1995 đến tháng 4 -1997.
Tại bản án dân sự phúc thẩm số 210/DSPT ngày 07-7-2003, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định:
- Huỷ toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số 494/DSST ngày 11-4-2002 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, giao hồ sơ để Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử lại sơ thẩm theo thủ tục chung.
- Tiếp tục duy trì quyết định kê biên khẩn cấp tạm thời số 08/KB
ngày 20-10-1999 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và quyết định
số 14/QĐKB ngày 25-5-1999 của Toà án nhân dân quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.
- Bà Liêng, ông Huy không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn lại tiền tạm ứng án phí kháng cáo cho bà Liêng, ông Huy.
Sau khi xét xử phúc thẩm bà Nguyễn Thị Như Nguyện có đơn khiếu nại.
Tại Quyết định số 03/KNDS ngày 19-1-2005, Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã kháng nghị bản án dân sự nêu trên, đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử: Huỷ bản án dân sự phúc thẩm nêu trên, giao hồ sơ vụ án cho Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
Tại phiên toà Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao giữ nguyên bản án phúc thẩm số 210/DSPT ngày 07-7-2003 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh.
Xét thấy:
Theo lời khai của bà Nguyễn Thị Như Nguyện thì từ năm 1995 đến năm 1997 bà Nguyễn Thị Như Nguyện cho vợ chồng bà Nguyễn Thị Kim Liêng và ông Nguyễn Phước ái Huy vay tiền nhiều lần. Có một số khoản vay bà Nguyễn Thị Kim Liêng và ông Nguyễn Phước ái Huy đã thanh toán xong, nên bà Nguyễn Thị Như Nguyện không yêu cầu giải quyết. Bà Nguyễn Thị Như Nguyện xuất trình 4 giấy nhận nợ với số tiền tổng cộng là 100.000.000 đồng và 27.000 USD để chứng minh là bà Nguyễn Thị Kim Liêng và ông Nguyễn Phước ái Huy chưa thanh toán, nên yêu cầu Toà án buộc bà Nguyễn Thị Kim Liêng và ông Nguyễn Phước ái Huy có trách nhiệm thanh toán số tiền trong 4 giấy biên nhận nợ này.
Bà Nguyễn Thị Kim Liêng và ông Nguyễn Phước ái Huy khai nhận có vay tiền của bà Nguyễn Thị Như Nguyện. Tất cả những lần vay tiền đều thông qua bà Nguyễn Thị Như Nguyệt (là kế toán trưởng của Công ty Viễn Cảnh, do ông Nguyễn Phước ái Huy là giám đốc) trực tiếp nhận và ghi sổ sách, sau đó bà Nguyễn Thị Như Nguyện làm giấy vay đưa cho bà Liêng, ông Huy ký. Bà Nguyễn Thị Kim Liêng và ông Nguyễn Phước ái Huy căn cứ vào 24 cuốn sổ thu chi do bà Nguyễn Thị Như Nguyệt ghi chép để cho rằng đã trả thừa cho bà Nguyễn Thị Như Nguyện 400.000.000 đồng, nên yêu cầu bà Nguyễn Thị Như Nguyện trả lại số tiền nhận thừa này.
Qua xem xét 24 cuốn sổ thu chi thì số liệu không rõ ràng, có chỗ bị sửa chữa, tẩy, xoá và bị xé; các khoản tiền ghi chi trả bà Nguyễn Thị Như Nguyện không có chữ ký của bà Nguyễn Thị Như Nguyện. Chính ông Lê Trọng Lâm (được bà Liêng, ông Huy uỷ quyền) cũng xác định sổ sách ghi chép không rõ ràng. Việc đánh giá chứng cứ qua các tài liệu ghi chép này thuộc trách nhiệm và thẩm quyền của Toà án. Trong trường hợp bà Nguyễn Thị Kim Liêng và ông Nguyễn Phước ái Huy không xuất trình được chứng cứ để chứng minh là đã thanh toán tiền vay cho bà Nguyễn Thị Như Nguyện thì bà Nguyễn Thị Kim Liêng và ông Nguyễn Phước ái Huy phải có trách nhiệm trả nợ bà Nguyễn Thị Như Nguyện; còn về quan hệ giữa bà Nguyễn Thị Kim Liêng và ông Nguyễn Phước ái Huy với bà Nguyễn Thị Như Nguyệt là quan hệ nội bộ; nếu bà Nguyễn Thị Kim Liêng, ông Nguyễn Phước ái Huy có chứng cứ chứng minh những người này chiếm đoạt tiền thì có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật bằng một vụ án khác.
Theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 69 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự thì Toà án cấp phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại trong trường hợp việc điều tra của Toà án cấp sơ thẩm không đầy đủ mà Toà án cấp phúc thẩm không thể bổ sung được; Khoản 1 Điều 277 Bộ luật tố tụng dân sự cũng quy định: Hội đồng xét xử phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án trong trường hợp: Việc chứng minh và thu thập chứng cứ không theo đúng quy định tại Chương VII của Bộ luật tố tụng dân sự hoặc chưa được thực hiện đầy đủ mà tại phiên toà phúc thẩm không thể thực hiện bổ sung được. Trong vụ án này các đương sự đã xuất trình các chứng cứ để chứng minh cho quyền lợi của mình, Toà án cấp sơ thẩm đã tiến hành thu thập chứng cứ và tạo điều kiện cho các đương sự đối chiếu nợ. Lẽ ra, Toà án cấp phúc thẩm phải xem xét, đánh giá toàn diện các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và thẩm vấn tại phiên toà để giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật, nhưng Toà án cấp phúc thẩm lại huỷ bản án sơ thẩm là không đúng quy định của pháp luật.
Bởi các lẽ trên và căn cứ vào khoản 3 Điều 291; khoản 3 Điều 297;
Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự;
Quyết định:
1. Huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 210/DSPT ngày 07-7-2003 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử vụ án đòi nợ giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Như Nguyện với bị đơn là bà Nguyễn Thị Kim Liêng và ông Nguyễn Phước ái Huy.
2. Giao hồ sơ vụ án cho Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
____________________________________________
- Lý do huỷ bản án phúc thẩm:
Toà án cấp phúc thẩm quyết định huỷ bản án sơ thẩm là không phù hợp với quy định tại điểm a khoản 3 Điều 69 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, khoản 1 Điều 277 của Bộ luật tố tụng dân sự và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.
- Nguyên nhân dẫn đến việc huỷ bản án phúc thẩm:
Thiếu sót trong việc hiểu và vận dụng quy định của luật tố tụng về những trường hợp mà Toà án cấp phúc thẩm có thể huỷ quyết định của bản án sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại.
Cập nhật bởi phamthanhhuu ngày 28/05/2013 04:39:52 CH