Quyết định giám đốc thẩm số 12/2009/DS-GĐT ngày 14-5-2009 về vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất”

Chủ đề   RSS   
  • #263952 24/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định giám đốc thẩm số 12/2009/DS-GĐT ngày 14-5-2009 về vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất”

    Số hiệu

    12/2009/DS-GĐT 

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm số12/2009/DS-GĐT ngày 14-5-2009 về vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất”

    Ngày ban hành

    14/05/2009

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Dân sự

     

    Quyết định giám đốc thẩm số12/2009/DS-GĐT ngày 14-5-2009 về vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất”

    HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

    …….

    Ngày 14 tháng 5 năm 2009, tại trụ sở  Tòa án nhân dân tối cao mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự tranh chấp về quyền sử dụng đất giữa:

    Nguyên đơn :

    1. Ông Nguyễn Văn Cư, sinh năm 1951

    2. Bà Huỳnh Thị Thu ( vợ ông Cư), sinh năm 1955;

    Đều trú tại số 149, Lý Thái Tổ, phường 9, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh

    Bị đơn: Công ty trách nhiệm hữu hạn Việt T&P; Địa chỉ : số 30, đường 743, khu công nghiệp Sóng Thần II, tỉnh Bình Dương, ủy quyền tham gia tố tụng cho ông Châu Ngọc Triết, sinh năm 1952; trú tại số 123/4, đường Lê Hồng Phong, phường 2, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.

    Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Châu Lệ Phương, sinh năm 1960; trú tại số 20/B7 đường 3/2, phường 12, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh; ủy quyền tham gia tố tụng cho ông Châu Ngọc Triết.

    NHẬN THẤY:

    Theo đơn khởi kiện đề ngày 01-10-2003 và trong quá trình giải quyết vụ án, ông Nguyễn Văn Cư và bà Huỳnh Thị Thu trình bày:

    Năm 1944 Ủy ban nhân dân tỉnh Sông Bé ( nay là Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương) ra Quyết định số 1689/QĐUB ngày 23-12-1994 công nhận quyền sử dụng đất cho bốn thành viên của Công ty trách nhiệm hữu hạn Triệu Hưng Đạt  để xây dựng nhà máy giầy da, trong đó bà  Huỳnh Thị Thu được cấp 23.383 m2 đất và bà Châu Lệ Phương được cấp 28.138m2đất ( hai phần đất này liền kề với nhau) nhưng bà Thu, ông Cư phải nộp vào ngân sách Nhà nước 2.057.000.000 đồng. Do không có tiền nộp cho Nhà nước nên ông, bà có mượn của ông Bùi Mạnh Lân, Giám đốc Công ty Hưng Thịnh một số tiền và giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất  cho ông Lân giữ. Nay ông, bà đã trả lại tiền và đòi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau đó phát hiện phần đất của bà Phương được cấp, bà phương đã chuyển giao cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Việt T&P  để xây dựng nhà xưởng, trong quá trình xây dựng Công ty trách nhiệm hữu hạn Việt T&P lấn sang phần đất của ông, bà khoảng gần 7.000 m2 đất. Do đó, ông,  bà khởi kiện yêu cầu Công ty trách nhiệm hữu hạn Việt T&P dỡ bỏ phần nhà xưởng xây dựng trái  phép và trả lại cho ông, bà diện tích đất đã lấn chiếm.

    Công ty trách nhiệm hữu hạn Việt T&P trình bày: nhất trí với lời trình bày của ông Cư, bà Thu về nguồn gốc đất và quá trình sử dụng đất. Diện tích đất hiện  Công ty đang sử dụng là do bà Châu Lệ Phương  đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích là 28.138m2. Nhưng do Nhà nước giải tỏa phần đất mặt tiền để làm đường khu công nghiệp nên vị trí đất mà Công ty trách nhiệm hữu hạn Việt T&P sử dụng chưa chính xác theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Hiện nay, Công ty đang quản lý sử dụng 28.558m2 đất, thừa với diện tích được cấp là 420m2, do đo đạc có sai số kỹ thuật. Công ty đồng ý giao lại cho ông Cư, bà Thu 235m2 đất.

    Tại Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 40/CNSTT ngày 09-08-2004, Tòa án nhân dân huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương quyết định:

    1. Bà Huỳnh Thị Thu được quản lý, sử dụng diện tích 23.699m2 ( trên sơ đồ ở các vị trí 4,5,6,7,9 và 11).

    2. Bà Châu Lệ Phương được quản lý sử dụng diện tích là 28.323m2 ( trên sơ đồ ở các vị trí 2,3,8). Bà Châu Lệ Phương và Công ty trách nhiệm hữu hạn Việt T&P  có trách nhiệm dỡ bỏ tường rào để giao lại cho bà Huỳnh Thị Thu diện tích 235m2 đất tại vị trí số 11 trên bản đồ hiện trạng đính kèm.

    3. Tòa án kiến nghị cơ quan có thẩm quyền điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Châu Lệ Phương, bà Huỳnh Thị Thu theo nội dung thỏa thuận trên đây.

    Ngoài ra, Tòa án nhân dân huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương còn quyết định về án phí, chi phí đo đạc, quyền kháng cáo của các đương sự.

    Sau khi quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự nêu trên có hiệu lực pháp luật, tại Công văn số 76 ngày 10-11-204, Công ty trách nhiệm hữu hạn Việt T&P yêu cầu Cơ quan Thi hành án huyện Dĩ An ngừng thi hành quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự nêu trên với lý do: Công ty trách nhiệm hữu hạn Việt T&P đã liên hệ với Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Dương để xin điều chỉnh vị trí đất theo quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự của Tòa án nhân dân huyện Dĩ An thì đực biết lô đất bà Huỳnh Thị Thu đứng tên thuộc quyền sử dụng của Công ty cổ phần Thương mại- Sản xuất- Xây dựng Hưng Thịnh ( gọi tắt là Công ty Hưng Thịnh) theo bản án hình sự phúc thẩm số 05/HSPT ngày 12-01-2000 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh, nên Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Dương không đồng ý điều chỉnh.

    Ngày 14-12-2004 Công ty Hưng Thịnh có đơn khiếu nại với nội dung yêu cầu xem xét lại quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 40/CNSTT ngày 09-8-2004 của Tòa án nhân dân huyện Dĩ An với lý do: diện tích đất mà Tòa án nhân dân huyện Dĩ An đã công nhận quyền sử dụng cho bà Huỳnh Thị Thu thuộc quyền sở hữu của Công ty Hưng Thịnh theo quyết định tại bản án hình sự phúc thẩm số 05/HSPT ngày 12-01-2000 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã buộc “ Ngân hàng Công thương chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh giao lại cho Công ty Hưng Thịnh 561.782m2 đất ( kể cả 23.383m2 đất đứng tên bà Huỳnh Thị Thu góp vốn cổ phần cho Công ty Hưng Thịnh) tại khu công nghiệp Đồng An và Công ty Hưng Thịnh đã hoàn trả lại cho ICBV-HCMC 40.887.121.094 đồng”, Tòa án nhân dân huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương không đưa Công ty Hưng Thịnh vào tham gia tố tụng là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

    Tại Quyết định số17/QĐKN-DS ngày 03-02-2005, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương kháng nghị Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 40/CNSTT ngày 09-8-2004 của Tòa án nhân dân huyện Dĩ An và đề nghị Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử giám đốc thẩm hủy quyết định này; giao hồ sơ về Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử lại theo thủ tục chung với nhận định: căn cứ vào bản án hình sự phúc thẩm số 05/HSPT ngày 01-12-1999 đến ngày 12-01-2000 của Tòa phúc thẩm tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh thì diện tích 23.383m2 đất do bà Huỳnh Thị Thu đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là thuộc quyền quản lý, sử dụng của Công ty Hưng Thịnh đã bị quản thủ để đảm bảo thi hành án. Tòa án nhân dân huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương không xác minh, làm rõ hiện tại diện tích này thuộc quyền quản lý, sử dụng của ai mà chỉ dựa vào lời khai của đương sự và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do bà Thu xuất trình để công nhận sự thỏa thuận của các đương sự là không phù hợp pháp luật.

    Tại quyết định số01/UBTP-DS ngày 29-4-2005, Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương quyết định: Chấp nhận Quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương; hủy Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 40/CNSTT ngày 09-8-2004 của Tòa án nhân dân huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương và đình chỉ giải quyết vụ án với nhận định:

    Theo quyết định của Bản án hình sự phúc thẩm số 05/HSPT ngày 01-12-1999 đến ngày 12-01-2000 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã có hiệu lực pháp luật thì 23.383m2 đất đứng tên bà Thu trước đây đã được chuyển giao cho Công ty Hưng Thịnh theo hình thức góp vốn cổ phần. Quyền sử dụng diện tích đất này đã trở thành tài sản của Công ty Hưng Thịnh và bà Thu là một thành viên của Công ty. Bà Thu không được Công ty Hưng Thịnh ủy quyền nên không có quyền khởi kiện tranh chấp với Công ty trách nhiệm hữu hạn Việt T&P về ranh giới đất bị lấn chiếm. Trong quá trình xác minh, thu thập chứng cứ, Tòa án nhân dân huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương không làm rõ tính hợp pháp về quyền sử dụng đất của bà Thu và thụ lý giải quyết yêu cầu khởi kiện của bà Thu là trái pháp luật vì bà Thu không có quyền khởi kiện tranh chấp quyền sử dụng đất với Công ty trách nhiệm hữu hạn Việt T&P . Đối với tranh chấp giữa bà Thu với Công ty Hưng Thịnh hoặc với cá nhân ông Bùi Mạnh Lân, Giám đốc Công ty Hưng Thịnh sẽ được giải quyết tại một vụ kiện khác.

    Sau khi có Quyết định giám đốc thẩm nêu trên, ông Nguyễn Văn Cư và bà Huỳnh Thị Thu có nhiều đơn khiếu nại.

    Tại Công văn số98/TA-GĐKT ngày 17-6-2005, Công văn số154/TA-GĐT ngày 29-8-2005, Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị tái thẩm Quyết định giám đốc thẩm số01/UBTP-DS ngày 29-4-2005 của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương theo hướng hủy Quyết định này và giữ nguyên Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 40/CNSTT ngày 09-8-2004 của Tòa án nhân dân huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

    Tại Công văn số 1024/VKSTC-DS ngày 31-5-2006, Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao đã trả lời ông Nguyễn Văn Cư và bà Huỳnh Thị Thu là Quyết định giám đốc thẩm nêu trên của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương là có căn cứ.

    Tại Công văn số2009/VKSTC-V5 ngày 13-6-2007, Vụ 5 Viện kiểm sát nhân dân tối cao trả lời ông Nguyễn Văn Cư và bà Huỳnh Thị Thu là không có căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Quyết định giảm đốc thẩm của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.

    Căn cứ vào Quyết định số4606/QĐ-UBND ngày 24-10-2007 về việc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; hợp thức hóa giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Công ty cổ phần Thương mại- Sản xuất- Xây dựng Hưng Thịnh và Quyết định số70/QĐ-UBND ngày 14-02-2008 về việc điều chỉnh quyết định số4606/QĐ-UBND ngày 24-10-2007 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương, ngày 24-10-2007 và ngày 14-01-2008 Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Công ty Hưng Thịnh với tổng diện tích là 23.653,4 m2.

    Tại Quyết định kháng nghị số02/2008/KN-DS ngày 10-01-2008, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị Quyết định của giám đốc thẩm số01/UBTP-DS ngày 29-4-2005 của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương và đề nghị Tòa dân dự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy Quyết định giám đốc thẩm nêu trên và Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 40/CNSTT ngày 09-8-2004 của Tòa án nhân dân huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

    Tại Quyết định giám đốc thẩm số75/2008/DS-GĐT ngày 15-5-2008 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao đã quyết định hủy Quyết định giám đốc thẩm số01/UBTP-DS ngày 29-4-2005 của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương và Quyết định công nhận sự thỏa thuận của  các đương sự số 40/CNSTT ngày 09-8-2004 của Tòa án nhân dân huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương, giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật, với nhận định:

    Cần phải xác minh, thu thập chứng cứ để xác định khi Công ty Hưng Thịnh bổ nhiệm bà Thủy tạm thời thay thế ông Lân, thì có hay không việc Công ty Hưng Thịnh miễn nhiệm hay cách chức vụ Tổng Giám đốc và Chủ tịch Hội đồng quản trị đối với ông Lân và yêu cầu ông Lân bàn giao chức vụ Tổng Giám đốc và Chủ tịch Hội đồng quản trị của Công ty Hưng Thịnh cho bà Thủy, trên cơ sở đó mới xác định chính xác việc thỏa thuận của ông Lân với ông Cư, bà Thu tại trại tạm giam Công an tỉnh Tiền Giang vào ngày 07-8-2003 có phải với danh nghĩa là đại diện cho Công ty Hưng Thịnh hay không? Số tiền ông Lân nhận của bà Thu có được nhập vào quỹ của Công ty Hưng Thịnh hay không?

    Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương quyết định đình chỉ giải quyết vụ án mà không xem xét đến việc thỏa thuận giữa ông Lân với ông Cư, bà Thu vào ngày 07-8-2003 là chưa xem xét toàn diện vụ án, làm thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.

    Về tố tụng: Diện tích đất tranh chấp liên quan đến Công ty Hưng Thịnh và ông Lân, nhưng khi giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm không đưa ông Lân và đại diện Công ty Hưng Thịnh tham gia tố tụng là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

    Sau khi có Quyết định giám đốc thẩm nêu trên, ngày 21-7-2008, Công ty cổ phần Thương mại- Sản xuất- Xây dựng Hưng Thịnh có đơn khiếu nại không đồng ý với Quyết định giám đốc thẩm của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, trong đó có  nêu  bản án hình sự phúc thẩm số 05/HSPT ngày 12-01-2000 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã có hiệu lực thi hành, Công ty Hưng Thịnh đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ và Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Công ty Hưng Thịnh theo Quyết định số4606/QĐ-UBND ngày 24-10-2007.

    Sau đó, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có Công văn số 3753/VKSTC đề nghị Công an tỉnh Tiền Giang cho biết hiện ai đang quản lý số tiền 5.250.000.000 đồng.

    Tại Công văn số 2850/CAT (PC14) ngày 03-12-2008 của Công an tỉnh Tiền Giang ( gửi Viện kiểm sát nhân dân tối cao) có nội dung cơ quan Cảnh sá điều tra Công an tỉnh Tiền Giang đã nhiều lần mời ông Nguyễn Văn Cư và ông Bùi Mạnh Lân đến để giải quyết số tiền 5.250.000.000 đồng nhưng các ông không đến; ngày 11-3-2008 Cơ quan Cảnh sát điều tra đã đến Công ty cổ phần Đức Thành do ông Cư làm giám đốc và Giám đốc Công ty Hưng Thịnh do ông Lân làm giám đốc để giải quyết số tiền nêu trên do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Tiền Giang đang tạm giữ nhưng ông Cư và ông Lân không ai chịu nhận vì hai bên đều cho rằng vẫn còn tranh chấp diện tích 23.383m2 đất. Do đó, số tiền này Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an tỉnh Tiền Giang đang gửi tại Kho bạc Nhà nước tỉnh Tiền Giang.

    Tại Quyết định kháng nghị số03/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 14-01-209, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã kháng nghị Quyết định giám đốc thẩm số75/2008/DS-GĐT ngày 15-5-2008 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao về đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy Quyết định giám đốc thẩm nêu trên, giữ nguyên Quyết định số01/UBTP-DS ngày 29-04-2005 của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương với nhận định:

    …Khi xét xử phúc thẩm vụ án hình sự đối với Tăng Minh Phụng, Liên Khui Thìn, và các bị cáo khác, thì tại bản án số 05/HSPT ngày 12-01-2000 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh nhận định việc bà Thu tự ý thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Công ty Diên Hùng là không đúng, do đó quyết định buộc Ngân hàng Công thương chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh phải giao cho Công ty Hưng Thịnh 561.782 m2 đất (kế cả 23.383m2 đất đứng tên bà Huỳnh Thị Thu) tại khu công nghiệp Đồng An và Công ty Hưng Thịnh phải hoàn trả cho ICBV-HCM 40.887.121.095 đồng”.

    Căn cứ vào quyết định thi hành án số 677/UTTHA ngày 25-6-2002 của Phòng thi hành án thành phố Hồ Chí Minh, thì Ngân hàng Công thương Việt Nam chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh đã giao cho Công ty Hưng Thịnh các giấy tờ chứng nhận quyền sử dụng 561.728m2 đất ( trong đó có 23.383m2 đất đứng tên bà Huỳnh Thị Thu ) còn Công ty Hưng Thịnh đã nộp đủ 40.887.121.095 đồng cho Ngân hàng Công thương Việt Nam chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh.

    Như vậy, từ năm 2000 Công ty Hưng Thịnh có quyền quản lý, sử dụng 23.383m2 đất, bà Thu không có quyền sử dụng diện tích đất nêu trên, nên cũng không có quyền khởi kiện đòi đất bị lấn chiếm với Công ty trách nhiệm hữu hạn Việt T&P. Quyết định số01/UBTP-DS ngày 29-4-2005 của Ủy ban Thẩm phán tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương đã chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương với nhận định: cá nhân bà Huỳnh Thị Thu không có ủy quyền của Công ty Hưng Thịnh nên không có quyền khởi kiện tranh chấp đất bị lấn chiếm với Công ty trách nhiệm hữu hạn Việt T&P. Việc Tòa án nhân dân huyện Dĩ An không làm rõ quyền khởi kiện của bà Thu đã thụ lý, giải quyết yêu cầu khởi kiện của bà Thu là trái pháp luật. Do đó, đã quyết định : hủy Quyết định công nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự số 40/CNSTT ngày 09-8-2004 của Tòa án nhân dân huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương và đình chỉ giải quyết vụ án, đồng thời dành quyền khởi kiện cho Công ty Hưng Thịnh, ông Bùi Mạnh Lân thành vụ kiện khác là có căn cứ đúng pháp luật.

    Quyết định giám đốc thẩm số75/2008/DS-GĐT nêu trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao có yêu cầu Tòa án cấp dưới xác minh: Công ty Hưng Thịnh bổ nhiệm bà Thủy thay ông Lân khi bị bắt tạm giam thì có hay không việc cách chức Tổng của ông Lân và yêu cầu ông Lân bàn giao chức vụ Tổng Giám đốc cho bà Thủy? Số tiền ông Lân nhận của bà Thu có được nhập vào quỹ của Công ty Hưng Thịnh hay không? Và việc đưa Công ty Hưng Thịnh và ông Lân vào tham gia tố tụng là không cần thiết vì:

    Trong hồ sơ đã thể hiện: Các tài liệu ngày 29-4-2003 khi ông Bùi Mạnh Lân Tổng Giám đốc Công ty Hưng Thịnh bị bắt tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Tiền Giang thì ngày 15-5-2003 Đại hội đồng cổ đông Công ty Hưng Thịnh đã họp và cử bà Hoàng Thủy làm Giám đốc thay thế tạm thời ông Lân và ngày 20-5-2003 Sở Kế hoạch đầu tư tỉnh Bình Dương cấp giấy chứng nhận kinh doanh, người đại diện theo pháp luật của Công ty chức danh Giám đốc là bà Hoàng Thủy, việc làm trên của Công ty Hưng Thịnh là đúng với các quy định của Luật doanh nghiệp. Việc ông Lân khi bị bắt tạm giam có thỏa thuận với bà Thu giải quyết đất tranh chấp là hoàn toàn mang tính cá nhân, không đại diện cho Công ty nên không hợp pháp.

    Về số tiền 5.250.000.000 đồng của ông Cư, bà Thu nộp tại Trại giam tỉnh Tiền Giang, theo Báo cáo số 2850/CAT (PC14) ngày 03-12-2008 của Công an tỉnh Tiền Giang thì số tiền trên hiện đang tạm gửi tại Kho bạc Nhà nước tỉnh Tiền Giang, Công ty Hưng Thịnh chưa nhận số tiền trên.

    Về việc áp dụng luật tố tụng: Như đã phân tích ở trên tại Quyết định giám đốc thẩm của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương đã dành cho Công ty Hưng Thịnh, ông Lân bằng vụ kiện khác nếu có khởi kiện là phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng.

    Văn phòng Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng có Công văn số1796/VPBCĐ-V.III ngày 02-11-2007, Công văn số144/VPBCĐ-V.III ngày 06-3-2008, Công văn số690/VPBCĐ-V.III ngày 05-9-2008, Công văn số24/VPBCĐ-V.III ngày 24-01-2009, Công văn số139/VPBCĐ-V.III ngày 03-4-2009 gửi Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao đề nghị giải quyết vụ án nêu trên theo đúng quy định của pháp luật.

    Ngày 18-02-2009 ông Nguyễn Văn Cư và bà Huỳnh Thị Thu có đơn khiếu nại Quyết định kháng nghị số03/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 14-01-2009 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

    Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

    XÉT THẤY:

    Theo lời khai của ông Nguyễn Văn Cư tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hồ Chí Minh thì ông Nguyễn Văn Cư và bà Huỳnh Thị Thu đồng ý giao quyền sử dụng 23.383m2 đất cho Công ty Hưng Thịnh toàn quyền sử dụng, khai thác; hai bên nhất trí diện tích đất nêu trên có giá trị là 3.000.000.000 đồng ( ba tỷ đồng ), trong đó Công ty Hưng Thịnh có trách nhiệm nộp 2.057.704.000 đồng tiền sử dụng đất cho Nhà nước, số tiền còn lại 942.296.000 đồng ông Cư, bà Thu đồng ý đưa 300.000.000 đồng góp vốn vào Công ty Hưng Thịnh, còn lại 642.296.000 đồng Công ty Hưng Thịnh phải thanh toán cho ông Cư, bà Thu  để đầu tư cơ sở hạ tầng cho lô đất san lấp, xây tường rào, ông Cư thừa nhận đã nhận của ông Bùi Mạnh Lân 510.000.000 đồng để đền bù tiền đất và xây dựng cơ sở hạ tầng. Thực tế Công ty Hưng Thịnh đã nộp 2.057.704.000 đồng tiền sử dụng đất cho nhà nước; ông Cư, bà Thu đã nhận 510.000.000 đồng của Công ty Hưng Thịnh nhưng lại không đầu tư san lấp mặt bằng, xây dựng tường rào như đã thỏa thuận.

    Căn cứ vào Biên bản họp các thành viên cổ đông Công ty Cổ phần Hưng Thịnh lần thứ hai ngày 31-8-1996, Hợp đồng tham gia cổ đông Công ty ngày 07-9-1996 của Công ty cổ phần Hưng Thịnh được phòng Công chứng Nhà nước chứng nhận ngày 07-9-1996, Bản giải trình gửi Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hồ Chí Minh ngày 17-11-1997 của ông Nguyễn Văn Cư, lời khai của ông Nguyễn Văn Cư tại cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hồ Chí Minh ngày 19-11-1997 và bản án hình sự phúc thẩm số 05/HSPT ngày 01-12-1999 đến ngày 12-01-2000 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử các bị cáo Tăng Minh Phụng, Liên Khui Thìn và đồng bọn phạm tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa”, “ Cố ý làm trái…”, “ Thiếu trách nhiệm…” thì 23.383m2  đất đã được bà Huỳnh Thị Thu chuyển giao cho Công ty Hưng Thịnh theo hình thức góp vốn cổ phần nên quyền sử dụng diện tích đất này đã trở thành tài sản của Công ty Hưng Thịnh và bà Thu chỉ là một thành viên của Công ty; nếu diện tích đất này bị Công ty trách nhiệm hữu hạn Việt T&P lấn chiếm thì nguyên đơn phải là Công ty Hưng Thịnh, bà Thu không có quyền khởi kiện.

    Ngày 07-8-2003, khi ông Bùi Mạnh Lân bị bắt tạm giam về tội “ gây rối trật tự công cộng”, tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tiền Giang ông Lân đã thỏa thuận với ông Nguyễn Văn Cư và bà Huỳnh Thị Thu với nội dung ông Lân giao lại giấy chứng nhận quyền sử dụng 23.383m2 đất đứng tên bà Thu cho bà Thu, bà Thu với ông Cư ( chồng bà Thu ) thanh toán cho ông Lân 3.000.000.000  đồng ( ba tỷ đồng) nhưng thực tế ông Cư, bà Thu đã nộp cho Công an tỉnh Tiền Giang 5.250.000.000 đồng ( năm tỷ hai trăm năm mươi triệu đồng, Công an tỉnh Tiền Giang đã giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Thu. Khi có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ngày 01-10-2003 bà Thu đã khởi kiện Công ty trách nhiệm hữu hạn Việt T&P về ranh giới sử dụng đất, do đó Tòa án nhân dân huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương đã thụ lý, giải quyết và ra quyết định công nhận sự thỏa thuận giữa bà Thu và Công ty trách nhiệm hữu hạn Việt T&P , Công ty trách nhiệm hữu hạn Việt T&P có trách nhiệm dỡ bỏ tường rào để giao lại cho bà Huỳnh Thị Thu diện tích 235m2 đất tại vị trí số 11 trên bản đồ hiện trạng đính kèm. Ngày 03-02-2005 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương đã kháng nghị quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự nêu trên với lý do bà Thu không có quyền khởi kiện, đất vẫn thuộc của Công ty Hưng Thịnh. Tại quyết định số01/UBTP-DS ngày 29-4-2005 của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương đã chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương hủy Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 40/CNSTT ngày 09-8-2004 của Tòa án nhân dân huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương và đình chỉ giải quyết vụ án.

    Như vậy, Quyết định số01/UBTP-DS ngày 09-4-2005 của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương là đúng vì lúc này bản án hình sự phúc thẩm số 05/HSPT ngày 01-12-1999 đến ngày 12-01-2000 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đang có hiệu lực pháp luật. Thực hiện bản án, Công ty Hưng Thịnh đã nộp tiền vào Ngân hàng để giải chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bà Thu. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AL804539 ngày 24-10-2007, số AL557854 và AL557855 ngày 14-01-2008 cho Công ty Hưng Thịnh.

    Ông Lân khi bị tạm giam đã thỏa thuận nhận tiền của bà Thu, ông Cư và trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Thu ngày 07-8-2003 không có giá trị thực hiện đối với Công ty Hưng Thịnh bởi: Về hình thức Biên bản thỏa thuận ngày 07-8-2003 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tiền Giang thể hiện sự thỏa thuận giữa “ bị can Bùi Mạnh Lân với ông Nguyễn Văn Cư, bà Huỳnh Thị Thu”, ông Lân không lấy tư cách là người đại diện của Công ty Hưng Thịnh ký Biên bản thỏa thuận này, về nội dung của biên bản thì trước thời điểm ông Lân thỏa thuận, vào ngày 15-5-2003( trong thời gian ông Lân đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tiền Giang) thì Công ty Hưng Thịnh đã họp Đại hội đồng cổ đông và căn cứ vào nội dung Biên bản họp Đại hội đồng cổ đông này thì bà Thủy được Hội đồng cổ đông Công ty Hưng Thịnh bổ nhiệm chức danh Giám đốc và được phân công thực hiện các quyền và nhiệm vụ quy định tại Điều 27 Điều lệ Công ty; nội dung Điều 27 lại quy định nhiệm vụ quyền hạn của Tổng Giám đốc. Như vậy, bà Thủy đã được Hội đồng cổ đông bổ nhiệm và phân công thay thế vị trí của ông Lân trong Công ty và là đại diện theo pháp luật của Công ty.

    Ngày 20-5-2003, Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Bình Dương cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho Công ty Hưng Thịnh, người đại diện theo pháp luật của Công ty, chức danh Giám đốc là bà Hoàng Thủy. Như vậy về mặt pháp lý, kể từ ngày 20-5-2003 bà Thủy là người đại diện theo pháp luật của Công ty Hưng Thịnh, có quyền giải quyết mọi vấn đề của Công ty Hưng Thịnh. Đồng thời cũng kể từ ngày 20-5-2003, ông Bùi Mạnh Lân không còn tư cách để thực hiện theo Giấy ủy quyền ngày 15-5-2002 vì tư cách của ông Lân phải được gắn liền với chức danh Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc, giấy ủy quyền trên không ủy quyền cho ông Lân với tư cách cá nhân.

    Như vậy, ngày 07-8-2003 khi ông Lân đang bị tạm giam đã thỏa thuận nhận tiền của bà Thu, ông Cư và trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là tài sản của Công ty Hưng Thịnh cho bà Thu là không hợp pháp vì đây chỉ là thỏa thuận giữa cá nhân ông Lân với vợ chồng ông Lân và bà Thu. Trong hồ sơ cũng không có tài liệu, căn cứ nào thể hiện bà Thủy biết và đồng ý với nội dung thỏa thuận này.

    Số tiền 5.250.000.000 đồng ( năm tỷ hai trăm năm mươi triệu đồng) mà ông Cư, bà Thu đã nộp cho Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an tỉnh Tiền Giang để nhận lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nếu có tranh chấp giữa bà Thu, ông Cư với ông Lân và Công ty Hưng Thịnh có thể giải quyết bằng một vụ án khác. Vấn đề này tại Quyết định số01/UBTP-DS ngày 29-4-2005 của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương cũng đã dành quyền khởi kiện là có căn cứ.

    Về khoản tiền 5.250.000.000 đồng ( năm tỷ hai trăm năm mươi triệu đồng) mà ông Cư, bà Thu đã nộp cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Tiền Giang: Theo Công văn số 2850/CAT (PC14) ngày 03-12-2008 của Công an tỉnh Tiền Giang gửi Viện kiểm sát nhân dân tối cao có nội dung Công an tỉnh Tiền Giang đã nhiều lần mời ông Nguyễn Văn Cư và ông Bùi Mạnh Lân đến làm việc để giải quyết về số tiền này nhưng hai ông không đến; hiện nay số tiền này Công an tỉnh Tiền Giang đang gửi tại Kho bạc Nhà nước tỉnh Tiền Giang. Do đó, Hội đồng xét xử giám đốc thẩm của Tòa án dân sự Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu phải xác minh số tiền này có được nhập vào quỹ của Công ty Hưng Thịnh hay không là không cần thiết vì Công ty Hưng Thịnh chưa nhận số tiền này.

    Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3, Điều 291, khoản 2 Điều 297, Điều 298 Bộ luật tố tụng dân sự;

    QUYẾT ĐỊNH:

    Hủy Quyết định giám đốc thẩm số75/2008/DS-GĐT ngày 15-5-2008 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao và giữ nguyên Quyết định giám đốc thẩm số01/UBTP-DS ngày 29-4-2005 của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương về vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn là ông Nguyễn Văn Cư, bà Huỳnh Thị Thu với bị đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn Việt T&P.

    Lý do Quyết định giám đốc thẩm của Tòa án dân sự TANDTC bị hủy:

    Quyết định giám đốc thẩm số01/UBTP-DS ngày 29-4-2005 của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương là đúng, việc Tòa án dân sự Tòa án nhân dân tối cao hủy quyết định này là không có căn cứ.

     

    Cập nhật bởi phamthanhhuu ngày 24/05/2013 04:16:39 CH
     
    3780 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận