Số hiệu
|
10/2008/DS-GDT
|
Tiêu đề
|
Quyết định giám đốc thẩm số:10/2008/DS-GDT ngày 15/05/2008 về vụ án “đòi tài sản”
|
Ngày ban hành
|
15/05/2008
|
Cấp xét xử
|
Giám đốc thẩm
|
Lĩnh vực
|
Dân sự
|
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
…….
Ngày 15 tháng 5 năm 2008, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án “đòi tài sản” giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Dương Thị Thông, sinh năm 1960; trú tại xóm Yên, xã Cao Xá, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang.
Bị đơn: Phòng thi hành án tỉnh Bắc Giang, do bà Ngô Thị Hảo, là chấp hành viên phòng thi hành án tỉnh Bắc Giang đại diện theo ủy quyền (văn bản ủy quyền ngày 12-6-2002)
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Nguyễn Văn Quang sinh năm 1957; trú tại xóm Yên, xã Cao Xá, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang;
2. Cụ Dương Văn Dần; trú tại xóm Đinh, xã Cao Xá, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang;
3. Ông Nguyễn Văn Cường, sinh năm 1964; trú tại ngã tư Ngô Xá, thị trấn Cao Thượng, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang;
4. Ông Nguyễn Văn Châu, sinh năm 1946 và vợ là bà Hoàng Thị Xa sinh năm 1948, đều trú tại khu ngã tư Ngô Xá, thị trấn Cao Thượng, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang;
5. Ủy ban nhân dân huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang, do ông Dương Văn Toán – phó trưởng phòng Địa chính nông nghiệp huyện Tân Yên đại diện.
NHẬN THẤY:
Theo đơn khởi kiện đề ngày 16-08-2001 và lời khai của bà Dương Thị Thông thì:
Bà là nhân viên bán hàng của hợp tác xã Cao Xá, huyện Tân Yên; năm 1990 bà đấu thầu 1 lô đất diện tích 40m2 tại ngã tư Cao Xá để làm dịch vụ bán hàng với thời hạn là 5 năm, sau đó bà đã làm 2 gian nhà cấp bốn,1 cái để bán hàng, 1 gian bếp và 1 giếng nước tại lô đất này.
Năm 1992, bà kết hôn với ông Nguyễn Văn Quang nhưng không nhập tài sản riêng của bà (là nhà đất nêu trên) vào tài sản chung vợ chồng; năm 1994 vợ chồng bà làm 3 gian công trình phụ bằng tre, gỗ, lợp ngói và 1 nhà tắm.
Do ông Quang nợ tiền của ông Nguyễn Văn Cường và bị ông Cường kiện ra Tòa án đòi nợ. Tại bản án phúc thẩm số98/PT-DS ngày 31-08-1996 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Bắc (cũ) đã buộc ông Quang phải trả ông Cường 30.953.000 đồng. Ngày 25-9-1996, Đội thi hành án huyện Tân Yên ra quyết định cưỡng chế thi hành án bằng biện pháp kê biên, định giá nhà; đồng thời lập “Biên bản cưỡng chế” kê biên nhà đất của bà tại ngã tư Cao Xá, mà không có sự đồng ý của bà.
Đầu năm 1997, Ủy ban nhân dân xã Cao Xá có chủ trương hợp thức hóa các lô đất mà các chủ hộ đã nhận thầu nêu trên thành đất ở với điều kiện mỗi lô là 100m2 đất, do bà không có tiền nên cụ Dương Văn Dần (bố của bà) được ủy ban nhân dân xã cho mua 60m2 đất (kế tiếp phần đất phiá sau mà bà đã trúng thầu năm 1990) và bà đã đứng tên người sử dụng cả 100m2 đất của hai bố con.
Ngày 08-05-1997, phòng thi hành án tỉnh Bắc Giang ra quyết định cưỡng chế thi hành án và trục xuất mẹ con bà ra khỏi nhà, nên mẹ con bà phải đi ở nhờ nhiều năm nay; ngày 17-11-1997 phòng thi hành án đã bán nhà đất (40m2) của riêng bà và 60m2 đất của cụ Dần (bố bà) cho ông Cường.
Việc thi hành án tự ý lấy tài sản riêng của bà để thi hành án cho chồng bà là vi phạm nghiêm trọng quyền lợi hợp pháp của bà. Nay bà yêu cầu phòng thi hành án tỉnh Bắc Giang trả lại toàn bộ nhà đất cho bà.
Theo lời khai của đại diện phòng thi hành án tỉnh Bắc Giang (sau đây gọi tắt là phong thi hành án) thì:
Ông Quang phải thi hành bản án dân sự phúc thẩm số98/DS-PT ngày 31-8-1996 của tòa án nhân dân tỉnh Hà Bắc (cũ) là trả ông Cường số tiền 30.593.000 đồng và phải chịu 550.000 đồng án phí; do ông Cường có đơn yêu cầu thi hành án nên ngày 14-9-1996 Đội thi hành án huyện Tân Yên ra quyết định số 146 cho thi hành án khoản tiền mà ông Quang phải trả cho ông Cường và án phí.
Ông Quang không thi hành án, nên Đội thi hành án đã xác minh nguồn gốc tài sản và ngày 25-9-1996 Đội thi hành án đã ra quyết định cưỡng chế thi hành án bằng biện pháp kê biên, định giá nhà đất nêu trên là 35 triệu đồng; đồng thời thông báo việc bán nhà tới các đương sự, thông báo bán nhà trên đài phát thanh huyện Tân Yên, niêm yết thông báo bán nhà tại ủy ban nhân dân xã và Đội thi hành án.
Do việc thì việc thi hành bản án nêu trên là phức tạp nên theo đề nghị của Đội thi hành án, phòng thi hành án tỉnh Bắc Giang đã rút hồ sơ thi hành án lên phòng thi hành án để trực tiếp tổ chức thi hành. Phòng thi hành án đã báo để ông Quang tự nguyện thi hành án và vẫn duy trì quyết định áp dụng biện pháp kê biên tài sản của Đội thi hành án huyện Tân Yên, đã giải thích cho bà Thông về quyền khởi kiên ra tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự (vì bà Thông cho rằng nhà đất kê biên là tài sản riêng của bà) nhưng sau 3 tháng không có ai khởi kiện; nhà đất kê biên được Đội thi hành án giao cho bà Thông quản lý, nhưng hết thời gian tự nguyện thi hành án, ông Quang vẫn không thi hành án, nên ngày 08-05-1997 phòng thi hành ra quyết định cưỡng chế “thu hồi nhà của ông Nguyễn Văn Quang tại Ngã tư Cao Xá, thị trấn Cao Thượng, huyện Tân Yên” và ra quyết định số01/QĐ-THA ngày 17-11-1997 bán tài sản kê biên (1 nhà cấp 4 và công trình phụ trên diện tích đất sử dụng 100m2) cho ông Cường (người được thi hành án và có đơn xin mua nhà đất) với giá 35 triệu đồng.
Việc cưỡng chế thi hành án và bán tài sản kê biên để thi hành bản án phúc thẩm nêu trên là đúng pháp luật; nên phòng thi hành án không đồng ý với yêu cầu đòi nhà đất của bà Thông.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày: ông Nguyễn Van Quang (chồng bà Thông) khai: Khoản tiền ông nợ ông Cường không liên quan đến bà Thông. Quá trình thi hành án, ông đã trình bày là số tiền lớn không có khả năng thi hành trong một vài lần, ông đề nghị được trừ vào lương của ông (mỗi tháng 200.000 đồng) nhưng không được chấp nhận. Tài sản là nhà đất mà Đội thi hành án huyện Tân Yên và phòng thi hành án tỉnh Bắc Giang kê biên, cưỡng chế và bán cho ông Cường là tài sản riêng của vợ ông là bà Dương Thị Thông và cụ Dương Văn Dần (bố vợ ông); ông yêu cầu tòa án giải quyết theo pháp luật.
- Theo đơn của cụ Dương Văn Dần và lời khai của ông Dương Văn Tuyên (đại diện theo ủy quyền của ông Dần) thì: Tháng 2-1997, cụ Dần mua của ủy ban nhân dân xã Cao Xá phần đất 60m2 giáp với phần đất phía sau của bà Thông đã trúng thầu trước đây tại ngã tư Cao Xá và cụ đã nộp cho xã số tiền là 12.000.000 (có 3 hóa đơn nộp tiền), như vậy đất của con gái cụ và cụ cộng lại là 100m2. Sau đó, năm 1997 ủy ban nhân dân xã Cao Xá đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 100m2 mang tên con gái cụ (là bà Thông); quà trình Đội thi hành án huyện Tân Yên và phòng thi hành án tỉnh Bắc Giang kê biên nhà đất của bà Thông để thi hành bản án số 98/PTDS ngày 31-08-1996, cụ không được biết; nay phòng thi hành án tỉnh Bắc Giang bán ngay 60m2 đất của cụ là không đúng; yêu cầu tòa án xem xét, giải quyết để cụ Dần được sử dụng 60m2 đất.
- Ông Nguyễn Văn Cường trình bày rằng: Phòng thi hành án tỉnh Bắc Giang có quyết định bán nhà đất cho ông với giá 35.000.000 đồng; ông đã nộp số tiền chênh lệch (giữa số tiền được thi hành án và số tiền mua nhà đất) là 2.951.000 đồng trả cho Phòng thi hành án để trả lại cho bà Thông; tháng 2-1998, ông bán nhà đất đó cho vợ chồng ông Nguyễn Văn Châu, bà Hoàng Thị Xa với giá 59.000.000 đồng nên không có liên quan đến nhà đất này nữa.
- Ông Nguyễn Văn Châu và vợ bà Hoàng Thị Xa khai: Tháng 2-1998, vợ chồng ông mua nhà của ông Cường giá 59.000.000 đồng; ông Cường đã nhận đủ tiền mua bán nhà đất; khi mua bán ông Cường thỏa thuận làm giấy tờ cho gia đình ông; vợ chồng ông đã tự đăng ký kê khai và đã được ủy ban nhân dân huyện Tân Yên cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng vì đất có tranh chấp nên ủy ban nhân dân thị trấn Cao Thượng chưa giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho gia đình ông. Sau khi mua nhà đất, vợ chồng ông đã sửa chữa, làm lại trái vẩy để bán hàng, xây nhà bếp và xây dựng công trình phụ.
Việc mua bán nhà đất giữa vợ chồng ông với ông Cường là ngay tình, hợp pháp nên không đồng ý trả lại đất cho bà Thông.
Tại bản án sơ thẩm số 05/DSST ngày 29-9-2004, tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang đã quyết định:
Áp dụng Điều 12 pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự; các điều 29,34,36 Pháp lệnh thủ tục giải quyết thi hành án dân sự; các điều 233, 263 và 264 Bộ luật dân sự.
Xử: Hủy quyết định cưỡng chế số 10 ngày 25-9-1996 và biên bản định giá ngày 25-9-1996 của Đội thi hành huyện Tân Yên. Quyết định cưỡng chế số 1 ngày 08-05-1997 và quyết định bán tài sản kê biên số 1 ngày 17-11-1997 hóa đơn thu tiền số 10 ngày 17-10-1997 của phòng thi hành án tỉnh Bắc Giang để tiến hành việc thi hành án lại từ đầu đối với ông Nguyễn Văn Quang.
Buộc ông Nguyễn Văn Châu, bà Hoàng Thị Xa có trách nhiệm cùng phòng thi hành án tỉnh Bắc Giang và ông Nguyễn Văn Cường trả lại bà Dương Thị thông toàn bộ đất ở và tài sản trên đất gồm hai gian nhà cấp bốn, 3 gian công trình phụ, trái vẩy bán hàng, giếng nước…(tình trạng như biên bản kê biên ngày 25-9-1996 của Đội thi hành án huyện Tân Yên lập) tại khu ngã tư Cao Xá, thị trấn Cao Thượng, Tân Yên, Bắc Giang.
Bác yêu cầu đòi lại 60m2 đất của ông Dương Văn Dần.
Phòng thi hành án tỉnh Bắc Giang phải trả ông Nguyễn Văn Cường 2.951.000 đồng cùng lãi suất ngân hàng trên số tiền gửi.
Ngoài ra, tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 12-10-2004, ông Hoàng Văn Khải đại diện phòng thi hành án tỉnh Bắc Giang kháng cáo toàn bộ quyết định của bản án sơ thẩm và cho rằng quyết định này không phù hợp với pháp luật về thi hành án dân sự.
Ngày 13-10-2004, bà Dương Thị Thông kháng cáo về việc yêu cầu Phòng thi hành án bồi thường thiệt hại thực tế do bị trục xuất ra khỏi nhà từ năm 1997 đến nay là 22.050.000 đồng. Đối với 60m2 đất của ông Dần (bố của bà) có cho bà hay không thì gia đình còn phải bàn.
Ngày 12-10-2004, ông Nguyễn Văn Cường kháng cáo cho rằng bản án sơ thẩm hủy bỏ việc mua bán nhà đất giữa ông và phòng thi hành án tỉnh Bắc Giang và phải trả bà thông số tài sản trên đất mà ông đã mua là không đúng. Ngày 06-10-2004, ông Nguyễn Văn Châu và vợ là bà Hoàng Thị Xa kháng cáo cho rằng việc ông bà mua nhà trên đất mà ông Cường bán là ngay thẳng đã được cơ quan pháp luật bán theo quy định của pháp luật. Nếu cơ quan nào làm sai phải bồi thường cho ông bà.
Ngày 12-10-2004, ông Dương Minh Tuyên (đại diện theo ủy quyền của cụ Dần) kháng cáo đề nghị tòa xem xét 60m2 đất là của cụ Dần, còn cho ai thì gia đình phải bàn.
Tại bản án phúc thẩm số 63/DSPT ngày 30-03-2005, tòa phúc thẩm tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội quyết định:
Áp dụng khoản 1 Điều 275 Bộ luật tố tụng dân sự. Không chấp nhận kháng cáo của các đương sự. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 05 ngày 29-09-2004 của tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang.
Sau khi xét xử phúc thẩm, ông Nguyễn Minh Châu có đơn khiếu nại cho rằng việc mua bán nhà giữa vợ chồng ông với vợ chồng ông Cường, bà Mai đã tuân thủ theo đúng các quy định của pháp luật và đã được ủy ban nhân dân huyện Tân Yên, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho gia đình ông. Tòa án cấp phúc thẩm buộc vợ chồng ông trả đất và tài sản trên đất cho bà Thông là không đúng.
Ngày 15 tháng 6 năm 2007, Phòng thi hành án tỉnh Bắc Giang có công văn số699/CV-THA đề nghị xem xét lại bản án phúc thẩm nêu trên vì cho rằng sau khi vợ chồng ông Châu, bà Xa mua nhà đất của ông Cường đã sửa chữa và xây dựng hợp lệ 1 số công trình như làm lại trái vảy bán hàng, xây nhà bếp, công trình vệ sinh tự hoại, khoan giếng… nhưng tòa án cấp sơ thẩm và tòa án cấp phúc thẩm không đề cập việc xử lý tài sản đó như thế nào?
Tại quyết định số18/2008/KN-DS ngày 04-02-2008, Chánh án tòa án nhân dân tối cao kháng nghị bản án phúc thẩm nêu trên và đề nghị Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và hủy bản án dân sự sơ thẩm số 05/DSST ngày 29-09-2004 của tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang; giao hồ sơ vụ án cho tòa án nhân dân tỉnh Bác Giang xét xử sơ thẩm lại với nhận định: “…Theo các tài liệu trong hồ sơ thì có cơ sở xác định nhà đất tại ngã tư Cao Xá là tài sản chung của vợ chồng bà Thông, ông Quang với cụ Dần (Cụ Dần là bố bà Thông và là người nộp 12.000.000 đồng để mua 60m2 đất) Theo kết quả xác minh của Đội thi hành án huyện Tân Yên và Phồng thi hành án tỉnh Bắc Giang thì không thể hiện nhà đất này là của riêng ông Quang. Việc Đội thi hành án huyện Tân Yên ra “quyết định cưỡng chế thi hành án” số 10/THA ngày 25-09-1996 bằng biện pháp kê biên, định giá nhà và đất ở; Phòng thi hành án tỉnh Bắc Giang ra quyết định cưỡng chế thi hành án số 01/THA ngày 08-05-1997 bằng biện pháp “thu hồi ngôi nhà của ông Nguyễn Văn Quang tại ngã tư Cao Xá (cũ), thị trấn Cao Thượng, huyện Tân Yên và quyết định số01/QĐ-THA ngày 17-11-1997 bán nhà đất (đã kê biên) cho ông Cường (người được thi hành án) với giá 35 triệu đồng (không thông qua thủ tục bán đấu giá) mà không có ý kiến của bà Thông, cụ Dần là các đồng sở hữu, sử dụng nhà, đất nêu trên là không đúng pháp luật. Do đó, giao dịch mua bán nhà đất giữa phòng thi hành án với ông Cường và giao dịch mua bán nhà đất giữa ông Cường với vợ chồng ông Châu đều vô hiệu. Tòa án cấp sơ thẩm và tòa án cấp phúc thẩm đều quyết định buộc vợ chồng ông Châu và phong thi hành án tỉnh Bắc Giang trả nhà, đất cho bà Thông là đúng; nhưng lại đều không có quyết định giải quyết hậu quả của các hợp đồng mua bán nhà, đất vô hiệu nêu trên là không đúng”.
Mặt khác, tuy quyết định cưỡng chế thi hành án số 10/THA ngày 25-09-1996 bằng biện pháp kê biên, định giá nhà, đất của Đội thi hành án huyện Tân Yên, quyết định cưỡng chế ti hành án số 01/THA ngày 08-05-1997 và quyết định bán tài sản kê biên số01/QĐ-THA ngày 17-11-1997 của Phòng thi hành án tỉnh Bắc Giang là không đúng pháp luật, nhưng tòa án không có thẩm quyền để hủy các quyết định đó; bởi vì theo quy định tại điều 44 và điều 45 của Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993 (Điều 60 và điều 64 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004) thì thẩm quyền giải quyết khiếu nại về thi hánh án thuộc cơ quan thi hành án và cơ quan quản lý thi hành án, còn việc kháng nghị quyết định thi hành án trái pháp luật thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân (trong khi đó, Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993 được ban hành sau Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989, nhưng tòa án cấp sơ thẩm và tòa án cấp phúc thẩm lại áp dụng điều 12 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 để quyết định hủy các quyết định hủy các quyết định cưỡng chế thi hành án và quyết định bán tài sản kê biên nêu trên là không đúng quy định tại khoản 3 điều 80 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996).
Ngoài ra, nhà, đất là tài sản kê biên đã được Phòng thi hành án bán cho ông Cường, sau đó ông Cường lại bán cho vợ chồng ông Châu, bà Xa (vợ chồng ông Châu, bà Xa đang chiếm hữu, sự dụng nhà đất này, còn phòng thi hành án không quản lý, sử dụng); nguyên đơn là bà Thông khởi kiện đòi cơ quan thi hành án trả lại tài sản là nhà, đất; Tòa án cấp sơ thẩm, cấp phúc thẩm buộc Phòng thi hành án và vợ chông ông Châu, bà Xa trả nhà đất cho bà Thông; nên cần phải xem xét xác định lại tư cách bị đơn của các đương sự trong vụ án cho đúng pháp luật. Hơn nữa, sau khi mua nhà, đất nêu trên của ông Cường, vợ chồng ông Châu đã sửa chữa, xây dựng một số công trình (như làm lại trái vảy bán hàng, xây dựng công trình vệ sinh…) nhưng tòa án cấp sơ thẩm và tòa án cấp phúc thẩm không xem xét, giải quyết khi quyết định buộc vợ chồng ông Châu phải trả lại nhà đất cho bà Thông là không hợp lý”.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị số18/2008/KN-DS ngày 04-02-2008 của Chánh án tòa án nhân dân tối cao.
XÉT THẤY:
Việc Đội thi hành án huyện Tân Yên ra quyết định số 146/THA ngày 14-09-1996 cho thi hành bản án số98/DS-PT ngày 31-08-1996 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Bắc (cũ) về khoản tiền mà ông Nguyễn Văn Quang phải trả cho ông Nguyễn Văn Cường và án phí là đúng vì ông Nguyễn Văn Cường có đơn thi hành án, nhưng ông Quang lại không thực hiện theo bản án phúc thẩm đã quyết định.
Việc Đội thi hành án huyện Tân Yên ra quyết định số 10/THA ngày 25-09-1996 bằng biện pháp kê biên, định giá nhà và đất; Phòng thi hành án tỉnh Bắc Giang ra quyết định cưỡng chế thi hành án số 01/THA ngày 08-05-1997 bằng biện pháp “thu hồi ngôi nhà của ông Nguyễn Văn Quang tại ngã tư Cao Xá (cũ), thị trấn Cao Thượng, huyện Tân Yên và quyết định số01/QĐ-THA ngày 17-11-1997 bán nhà đất (đã kê biên) cho ông Cường (người được thi hành án) là không đúng pháp luật; bởi vì nhà, đất nêu trên là tài sản chung của bà Dương Thị Thông, ông Nguyễn Văn Quang và cụ Dương Văn Dần, chứ không phải là tài sản riêng của ông Nguyễn Văn Quang (Theo các tài liêu chứng cứ thể hiện thì nhà đất nêu trên bao gồm 40m2 đất mà bà Thông trúng thầu vào năm 1990 và bà Thông đã xây nhà cấp 4, bếp và giếng nước tại đây; sau khi kết hôn với ông Nguyễn Văn Quang, bà Thông và ông Quang đã làm thêm diện tích phụ để sự dụng; năm 1997 cụ Dương Văn Dần là bố bà Thông được ủy ban nhân dân xã Cao Xá đồng ý cho nộp tiền mua thêm 60m2 đất liền kề với 40m2 mà bà Thông đã trúng thầu trước đây). Như vậy, giao dịch mua bán nhà đất nêu trên giữa phòng thi hành án tỉnh Bắc Giang với ông Nguyễn Văn Cường là giao dịch dân sự vô hiệu; và do đó, giao dịch mua bán nhà đất nêu trên giữa ông Cường và vợ chồng ông Châu, bà Xa cũng là giao dich dân sự vô hiệu.
Do nhà, đất nêu trên là tài sản chung của bà Dương Thị Thông, ông Nguyễn Văn Quang và cụ Dương Văn Dần nên bà Dương Thị Thông và cụ Dương Văn Dần có quyền khởi kiện đòi lại tài sản của mình; Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định các giao dịch mua bán nhà, đất giữa phòng thi hành án tỉnh Bắc Giang với ông Nguyễn Văn Cường và giữa ông Cường và vợ chồng ông Châu, bà Xa là giao dịch dân sự vô hiệu. Buộc vợ chồng ông Châu, bà Xa (người đang quản lý, sử dụng nhà, đất) phải trả lại nhà, đất cho bà Dương Thị Thông là có căn cứ, đúng pháp luật.
Tuy nhiên, khi giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm và tòa án cấp phúc thẩm đã có sai lầm thiếu sót sau đây:
Về tố tụng:
- Cụ Dương Văn Dần có đơn khởi kiện đòi 60m2 đất, lẽ ra phải xác định cụ Dần là nguyên đơn trong vụ án, nhưng tòa án cấp sơ thẩm và tòa án cấp phúc thẩm lại xác định cụ Dần là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chưa chính xác.
- Phòng thi hành án tỉnh Bắc Giang không quản lý, sử dụng nhà, đất đang tranh chấp; vợ chồng ông Nguyễn Văn Châu, bà Hoàng Thị Xa đang quản lý, sự dụng nhà, đất đó là đối tượng kiện đòi của bà Dương Thị Thông và cụ Dương Văn Dần; nhưng tòa án cấp sơ thẩm và tòa án cấp phúc thẩm lại xác định phong thi hành án tỉnh Bắc Giang là bị đơn, còn ông Nguyễn Văn Châu và bà Hoàng Thị Xa là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là sai tư cách tố tụng trong vụ án, mà phải xác định ông Nguyễn Văn Châu và bà Hoàng Thị Xa là bị đơn, Phòng thi hành án tỉnh Bắc Giang là người có quyền lợi, nghĩa vụ lien quan trong vụ án mới đúng. Vì vậy, cần phải xác định nguyên đơn là bà Dương Thị Thông và cụ Dương Văn Dần; bị đơn là ông Nguyễn Văn Châu và bà Hoàng Thị Xa; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là phòng thi hành án tỉnh Bắc Giang, ông Nguyễn Văn Quang, ông Nguyễn Văn Cường và ủy ban nhân dân huyện Tân Yên.
Về nội dung:
- Tòa án cấp sơ thẩm và tòa án cấp phúc thẩm chưa giải quyết hậu quả của hợp đồng mua bán nhà vô hiệu giữa phòng thi hành án tỉnh Bắc Giang và ông Nguyễn Văn Cường và cũng chưa giải quyết hậu quả của hợp đồng mua bán nhà vô hiệu giữa ông Nguyễn Văn Cường và vợ chồng ông Nguyễn Văn Châu và bà Hoàng Thị Xa là chưa triệt để.
- Tuy nhiên, muốn giải quyết hậu quả của giao dịch mua bán nhà đất vô hiệu giữa phòng thi hành án tỉnh Bắc Giang và ông Nguyễn Văn Cường thì phải xem xét, hủy các quyết định thi hành trái pháp luật nêu trên. Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 thì Tòa án không có thẩm quyền hủy các quyết định thi hành án đó. Do đó, khi giải quyết lại vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm cần áp dụng khoản 4 Điều 189 Bộ luật tố tụng dân sự ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án; đồng thời có công văn đề nghị Bộ tư pháp xem xét, hủy bỏ các quyết định thi hành án không đúng pháp luật hoặc kiến nghị Viện kiểm sát nhân dân tối cao xem xét việc kháng nghị đối với các quyết định thi hành án trái pháp luật để hủy bỏ các quyết định đó. Sau khi các quyết định thi hành án trài pháp luật bị hủy bỏ thì Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án đòi tài sản giữa bà Dương Thị Thông, cụ Dương Văn Dần với vợ chồng ông Nguyễn Văn Châu, bà Hoàng Thị Xa và giải quyết hậu quả hợp đồng mua bán nhà vô hiệu giữa ông Nguyễn Văn Cường và vợ chồng ông Nguyễn Văn Châu, bà Hoàng Thị Xa. Tranh chấp về bồi thường thiệt hại liên quan đến việc mua bán nhà đất vô hiệu giữa ông Nguyễn Văn Cường với phòng thi hành án tỉnh Bắc Giang được tách ra giải quyết ở vụ án khác nếu sau khi phòng thi hành án tỉnh Bắc Giang và ông Nguyễn Văn Cường không thỏa thuận được việc bồi thường thiệt hại hay các bên không thực hiện đúng thỏa thuận bồi thường thiệt hại theo hướng dẫn tại Nghị định số 47/CP ngày 03-05-1997 của Chính phủ “về việc giải quyết bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức Nhà nước…gây ra” mà có yêu cầu thì Tòa án sẽ thụ lý, giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 điều 291, khoản 3 điều 297, khoản 1 và khoản 3 điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Hủy bản án dân sự phúc thẩm số 63/DSPT ngày 30-03-2005 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội và bản án dân sự sơ thẩm số 05/DSST ngày 29-09-2004 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử vụ án “đòi tài sản” giữa nguyên đơn là bà Dương Thị Thông với bị đơn là phòng thi hành án tỉnh Bắc Giang; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cụ Dương Văn Dần, ông Nguyễn Văn Quang, ông Nguyễn Văn Cường, ông Nguyễn Văn Châu, bà Hoàng Thị Xa và Ủy ban nhân dân huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang.
2. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
--------------------------------------
Lý do bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm bị hủy:
Tòa án cấp sơ thẩm và tòa án cấp phúc thẩm xác định chưa chính xác tư cách tố tụng của các đương sự; chưa giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu; tuy nhiên, để giải quyết được vụ án Tòa án phải tạm đình chỉ giải quyết vụ án để tiến hành các thủ tục hành chính khác.