Quyết định giám đốc thẩm số 08/HĐTP-DS ngày 24-02-2005 về vụ án “tranh chấp nhà đất”

Chủ đề   RSS   
  • #264790 28/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định giám đốc thẩm số 08/HĐTP-DS ngày 24-02-2005 về vụ án “tranh chấp nhà đất”

    Số hiệu

    08/HĐTP-DS

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm số08/HĐTP-DS ngày 24-02-2005 về vụ án “tranh chấp nhà đất”

    Ngày ban hành

    24/02/2005

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Dân sự

     

    Quyết định giám đốc thẩm số08/HĐTP-DS

    ngày 24-02-2005 về vụ án “tranh chấp nhà đất”

    Hội đồng thẩm phán toà án nhân dân tối cao

    ....

    Ngày 24 tháng 2 năm 2005, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên Toà giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự về tranh chấp nhà, đất giữa các đương sự:

    Nguyên đơn: Ông Nguyễn Tiến Luân, trú tại khu hành chính số 2, phường Tích Sơn, thị xã Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.

    Bị đơn: Ông Vũ Văn Kiêm, trú tại số 221 khu hành chính số 3, phường Tích Sơn, thị xã Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.

    Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: bà Nguyễn Thị Ngân, trú tại 219 khu hành chính số 3, phường Tích Sơn, thị xã Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.

     

    nhận thấy:

    Ông Nguyễn Tiến Luân trình bày có nội dung tóm tắt như sau: 

    Ngày 8-1-1980 ông Nguyễn Tiến Luân mua của ông Trần Vạn một căn nhà ba gian trên diện tích đất rộng 7m, dài 27m nằm hướng “Đông Bắc ruộng Hợp tác xã ra đường Quốc lộ 2”.

     

    Ngày 12-11-1989 ông Nguyễn Tiến Luân mua của bà Đàm Thị Thẩn một ngôi nhà trên diện tích đất 107m2 có tứ cận: Phía Bắc là đường Quốc lộ 2, phía Nam giáp hộ ông Vị, phía Đông giáp phần đất trống Nhà nước quản lý, phía Tây giáp hộ ông Hùng. Theo ông Nguyễn Tiến Luân thì nhà đất mua của bà Đàm Thị Thẩn, ông chỉ là người đứng tên hộ vợ chồng người cháu là Nguyễn Thị Ngân và Nguyễn Đức Dục. Năm 1990 ông bán cho vợ chồng ông Vũ Văn Kiêm, bà Hồng Thị Hoà móng nhà trên đất ông mua của ông Trần Vạn với giá 7.000.000 đồng và ông đã ký giấy nhận đủ tiền ngày 29-11-1990.

     

    Do ông Vũ Văn Kiêm chưa có nhà ở nên ông đã cho ông Vũ Văn Kiêm mượn hai gian nhà của vợ chồng người cháu là Nguyễn Thị Ngân, Nguyễn Đức Dục trên một phần đất ông mua của bà Đàm Thị Thẩn. Ông Vũ Văn Kiêm đã ở nhờ từ đó đến ngày 1-10-2002 ông Vũ Văn Kiêm phá nhà cũ xây dựng lại. Ông vẫn khẳng định nhà đất là của vợ chồng bà Nguyễn Thị Ngân, ông Nguyễn Đức Dục, ông chỉ đứng tên mua hộ, còn vợ chồng bà Nguyễn Thị Ngân, ông Nguyễn Đức Dục trực tiếp trả tiền cho bà Đàm Thị Thẩn. Ngày 27-6-2002 ông đã làm thủ tục chuyển tên cho vợ chồng bà Nguyễn Thị Ngân, ông Nguyễn Đức Dục dưới hình thức tặng cho, có xác nhận của Uỷ ban nhân dân phường.

     

    Ông Vũ Văn Kiêm trình bày có nội dung tóm tắt như sau:

    Tháng 11/1990 vợ chồng ông ở Việt Trì về Vĩnh Yên đã mua ngôi nhà có diện tích 61m2 (13,5m x 4,6m) của ông Nguyễn Tiến Luân, việc mua bán đã thực hiện xong và được chính quyền phường xác nhận, đã nộp thuế chuyển nhượng cuối năm 1990, những thủ tục còn lại ông Nguyễn Tiến Luân hứa sẽ làm tiếp chuyển tên hợp pháp cho ông. Ngày 22-11-1990 gia đình ông đã được Uỷ ban nhân dân phường Tích Sơn cho phép sửa chữa công trình phụ và gia đình ông đã ở từ tháng 1 năm 1991 đến nay. Trong thời gian 12 năm ở đây không có ai kiện cáo gì. Tháng 9/2002 gia đình ông làm đơn xin phép xây dựng nhà và đã được Uỷ ban nhân dân phường xét duyệt, Sở xây dựng cấp giấy phép xây dựng nên ngày 1-10-2002 gia đình ông khởi công xây dựng thì ngày 2-10-2002 ông Nguyễn Tiến Luân và bà Nguyễn Thị Ngân có đơn kiện tranh chấp đất với gia đình ông.

    Ông khẳng dịnh nhà đất tranh chấp (số nhà 221 khu hành chính số 3, phường Tích Sơn, thị xã Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc) chính là ngôi nhà, đất gia đình ông đã mua của ông Nguyễn Tiến Luân vào năm 1990. Việc mua bán có làm giấy tờ, ông Nguyễn Đức Dục là người làm chứng. Phần nhà, đất gia đình ông mua của ông Nguyễn Tiến Luân ở liền kề với nhà của vợ chồng bà Nguyễn Thị Ngân, ông Nguyễn Đức Dục. Ông không đồng ý vợ chồng bà Nguyễn Thị Ngân, ông Nguyễn Đức Dục và ông Nguyễn Tiến Luân đòi nhà, đất.

     

    Bà Nguyễn Thị Ngân trình bày có nội dung tóm tắt như sau:

    Năm 1979 vợ chồng bà mua một ngôi nhà trên diện tích đất 107m2 của bà Đàm Thị Thẩn tại phố Vĩnh Thịnh, phường Tích Sơn, thị xã Vĩnh Yên với giá 3.000.000 đồng. Vì lúc đó vợ chồng bà đang sinh sống tại Việt Trì, nên nhờ ông Nguyễn Tiến Luân đứng tên làm giấy tờ mua bán nhà, đất với bà Đàm Thị Thẩn. Do vợ chồng bà đi làm xa nên nhờ ông Nguyễn Tiến Luân trong coi hộ nhà, đất. Ông Nguyễn Tiến Luân đã cho vợ chồng ông Vũ Văn Kiêm, bà Hồng Thị Hoà ở nhờ. Năm 1995 Uỷ ban nhân dân phường kiểm tra đất vẫn xác nhận gia đình bà có diện tích 107m2 đất. Ngày 27-6-2002 vợ chồng ông Nguyễn Tiến Luân làm thủ tục tặng cho vợ chồng bà nhà đất trên, được cơ quan chức năng xác nhận.

     

    Bà Ngân yêu cầu gia đình ông Vũ Văn Kiêm trả lại diện tích đất đã ở nhờ.

    Tại bản án dân sự sơ thẩm số 01/DSST ngày 25-6-2003 Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc quyết định:

     

    - Xác nhận giao dịch mua bán tài sản (nhà đất) giữa ông Nguyễn Tiến Luân và ông Vũ Văn Kiêm ngày 29-11-1990 là giao dịch hợp pháp.

     

    - Xác nhận tài sản nhà đất ông Nguyễn Tiến Luân bán cho ông Vũ Văn Kiêm một phần mua của bà Đàm Thị Thẩn có diện tích xây dựng là 58,77m2.

     

    - Bác đơn của ông Nguyễn Tiến Luân đòi lại tài sản (nhà đất) đối với ông Vũ Văn Kiêm.

    Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, quyền kháng cáo của đương sự.

    Ngày 1-7-2003 ông Nguyễn Tiến Luân, bà Nguyễn Thị Ngân có đơn kháng cáo.

    Tại bản án dân sự phúc thẩm số 152/DSPT ngày 6-11-2003 Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội đã quyết định sửa án sơ thẩm, chấp nhận đơn kháng cáo của ông Nguyễn Tiến Luân và chị Nguyễn Thị Ngân, 
    tuyên xử:

     

    1. Chưa có căn cứ xác nhận việc mua bán nhà giữa ông Nguyễn Tiến Luân và ông Vũ Văn Kiêm đối với căn nhà toạ lạc tại phố Vĩnh Thịnh, phường Tích Sơn, thị xã Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc (nay mang số 221 khu hành chính số 3, phường Tích Sơn, thị xã Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc).

     

    2. Xác nhận tài sản nhà đất ông Nguyễn Tiến Luân mua của bà Đàm Thị Thẩn có diện tích 107m2 toạ lạc tại phố phố Vĩnh Thịnh, phường Tích Sơn, thị xã Vĩnh Yên là hợp pháp và thuộc quyền sử dụng đất và sở hữu nhà là của ông Nguyễn Tiến Luân.

     

    - Ông Vũ Văn Kiêm có trách nhiệm trả lại nhà và đất đang ở cho ông Nguyễn Tiến Luân.

    - Xác nhận giấy tặng cho nhà đất của ông Nguyễn Tiến Luân và vợ là bà Nguyễn Thị Tâm tặng cho hai cháu là anh Nguyễn Đức

    Dục và chị Nguyễn Thị Ngân ngày 27-6-2002 là hợp pháp.

     

    - Anh Dục và chị Ngân có trách nhiệm đến các cơ quan có thẩm quyền ở địa phương để hoàn tất thủ tục về quyền sử dụng đất và sở hữu nhà theo quy định của pháp luật.

    Ngoài ra bản án phúc thẩm còn quyết định về án phí.

    Sau khi xử phúc thẩm, ông Vũ Văn Kiêm có đơn khiếu nại bản án phúc thẩm gửi đến nhiều cơ quan nhà nước ở trung ương. Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Vĩnh Phúc có công văn số16/HC-QH ngày 8-7-2004 và Uỷ ban pháp luật Quốc hội khoá XI cũng có công văn số 483/UBPL ngày 29-3-2004 gửi Toà án nhân dân tối cao và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị xem xét giám đốc thẩm lại vụ án theo quy định của pháp luật.

     

    Tại Quyết định số 105/KNDS ngày 02-12-2004 Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số 152/DSPT ngày 6-11-2003 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội và đề nghị Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm.

     

    Tại phiên toà giám đốc thẩm, đại diệm Viện Kiểm sát nhân dân tối cao có ý kiến nhất trí với kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao và đề nghị Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xử huỷ bản án phúc thẩm dân sự 
    số 152/DSPT ngày 6-11-2003 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội xét xử lại phúc thẩm.

     

    xét thấy:

    Ông Nguyễn Tiến Luân thừa nhận có bán cho gia đình ông Vũ Văn Kiêm một căn nhà nhưng lại khai rằng ông chỉ bán cho gia đình ông Vũ Văn Kiêm phần nhà đất ông mua của ông Trần Vạn tại thửa đất rộng 7m, đài 27m nằm hướng Đông Bắc ruộng Hợp tác xã ra đường Quốc lộ 2. Còn diện tích nhà đất ông đứng tên mua của bà Đàm Thị Thẩn ngày 12-11-1980 tại thửa đất diện tích 107m2 có tứ cận: Phía Bắc là đường Quốc lộ 2, phía Nam giáp hộ ông Vị, phía Đông giáp phần đất trống Nhà nước quản lý, phía Tây giáp hộ ông Hùng, chỉ là đứng tên hộ vợ chồng người cháu là Nguyễn Thị Ngân và Nguyễn Đức Dục và cho gia đình ông Vũ Văn Kiêm ở nhờ. Nhưng theo tài liệu hiện đang có trong hồ sơ thì chưa có đủ chứng cứ chứng minh rằng gia đình ông Vũ Văn Kiêm mua của ông Nguyễn Tiến Luân phần đất ông Nguyễn Tiến Luân mua của ông Trần Vạn như ông Nguyễn Tiến Luân nêu ra, vì việc mua bán giữa ông Nguyễn Tiến Luân với gia đình ông Vũ Văn Kiêm xảy ra từ năm 1990, nhưng đến năm 1996 ông Nguyễn Tiến Luân vẫn khẳng định nhà đất ông mua của ông Trần Vạn là của ông và ông vẫn yêu cầu đòi lại.

     

    Chính quyền địa phương đã xác định ông Trần Vạn không có đất nên không chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Tiến Luân. Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ có cơ sở xác định phần nhà, đất ông Nguyễn Tiến Luân bán cho gia đình ông Vũ Văn Kiêm chính là căn nhà trên diện tích đang tranh chấp vì: tại “Đơn đề nghị” gửi Uỷ ban nhân dân phường Tích Sơn đề ngày 2-10-2002 của ông Nguyễn Tiến Luân ghi: “năm 1991 tôi có một căn hộ ở mặt quốc lộ 2 thuộc phường Tích Sơn quản lý. Vì điều kiện tôi có bán lại cho anh Kiêm, chiều mặt đường 4,20m, chiều sâu 13,5m, nhà xây cấp 4. Anh Kiêm xây tường 10 đè lên móng nhà mà cháu ruột tôi là Nguyễn Đức Dục đang sử dụng... anh Kiêm xây dựng không đúng với diện tích năm 1991 tôi viết bán cho, mà anh Kiêm lại còn xây lấn lên phần móng của cháu tôi đang ở”. Tại Giấy nhận tiền đề ngày 29-11-1990 giữa ông Nguyễn Tiến Luân với bà Hồng Thị Hoà (vợ ông Vũ Văn Kiêm), ông Nguyễn Đức Dục đã ký xác nhận với tư cách là người hàng xóm làm chứng. Sau khi mua bán, ngày 21-11-1990 bà Hồng Thị Hoà là vợ ông Vũ Văn Kiêm làm đơn xin sửa chữa nhà đã mua của ông Nguyễn Tiến Luân, trong đơn đã chỉ rõ là sửa căn nhà nằm trên diện tích đất trên đường Vĩnh Thịnh và thực tế gia đình bà Hồng Thị Hoà đã sửa nhà trên diện tích nhà đất hiện nay đang tranh chấp. Đơn này được Uỷ ban nhân dân phường thẩm định và xác nhận. Trong quá trình ở, gia đình ông Vũ Văn Kiêm đã kê khai nộp thuế sử dụng đất từ năm 1992 đến nay, không ai tranh chấp. Tại biên bản ngày 20-3-2002 Uỷ ban nhân dân phường kiểm tra ranh giới đất của hộ ông Vũ Văn Kiêm để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (diện tích đất đang tranh chấp) thì hai hộ liền kề là ông Hùng và bà Nguyễn Thị Ngân (vợ ông Dục) ký xác nhận (BL 34,37). Đồng thời khi chính quyền xác định ranh giới đất của vợ chồng bà Nguyễn Thị Ngân thì ông Vũ Văn Kiêm ký xác nhận với tư cách hộ liền kề. Như vậy chính ông Luân, gia đình ông Dục đã xác định rõ căn nhà và đất mà ông Luân bán cho gia đình ông Kiêm là nhà, đất hiện nay mang số 221 khu hành chính số 3, phường Tích Sơn, thị xã Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.

     

    Mặt khác khi bà Nguyễn Thị Ngân và ông Nguyễn Đức Dục kê khai tài sản chung trong vụ án ly hôn tại Toà án nhân dân thị xã Vĩnh Yên, ông Dục, bà Ngân chỉ xác định tài sản vợ chồng là căn nhà trên 128m2, chứ không bao gồm phần nhà, đất gia đình ông Kiêm đang quản lý, sử dụng. Hơn nữa tại biên bản đo đạc và phân chia nhà, đất trong “vụ án ly hôn” lập ngày 27-6-2002 có sơ đồ nhà đất của ông Dục, bà Ngân và xác dịnh rõ nhà liền kề là hộ ông Kiêm (biên bản này có đại diện Toà án nhân dân thị xã Vĩnh Yên, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Vĩnh Yên, đại diện chính quyền địa phương và ông Dục, bà Ngân ký xác nhận).

     

    Như vậy, việc bản án phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm và quyết định buộc gia đình ông Vũ Văn Kiêm trả lại nhà, đất đang tranh chấp cho ông Nguyễn Tiến Luân là chưa phù hợp với các chứng cứ đang có trong hồ hơ vụ án. Tuy nhiên, bản án dân sự sơ thẩm số 01/DSST ngày 25-6-2003 của Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc kết luận nhà đất tranh chấp là của vợ chồng ông Vũ Văn Kiêm nhưng trong phần quyết định của bản án sơ thẩm nói trên chưa xác định tứ cận, vị trí của diện tích nhà, đất tranh chấp cũng là thiếu sót. Ngoài ra, trong vụ án này Toà án cấp sơ thẩm không đưa vợ ông Nguyễn Tiến Luân và vợ ông Vũ Văn Kiêm vào tham gia tố tụng, nhưng Toà án cấp phúc thẩm cũng không đề cập để làm rõ căn cứ pháp lý của vấn đề này là chưa thật đầy đủ. Căn cứ vào những nhận định nêu trên, Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thấy rằng cần phải huỷ Bản án dân sự phúc thẩm số 152/DSPT ngày 6-11-2003 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội, giao hồ sơ cho Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự.

     

    Bởi lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 291, khoản 3 Điều 297, khoản 2 Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự;

     

    Quyết định:

    - Huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 152/DSPT ngày 6-11-2003 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội xét xử việc tranh chấp nhà, đất giữa ông Nguyễn Tiến Luân và ông Vũ Văn Kiêm.

    - Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm lại vụ án theo đúng quy định của pháp luật.

    ____________________________________________

    - Lý do huỷ bản án phúc thẩm:

    1. Việc Toà án cấp phúc thẩm quyết định sửa bản án sơ thẩm, buộc bị đơn phải trả nhà, đất cho nguyên đơn là chưa phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án;

    2. Toà án cấp sơ thẩm không đưa vợ của nguyên đơn và bị đơn vào tham gia tố tụng là chưa chính xác; Toà án cấp phúc thẩm không xem xét và nhận định về vấn đề này là chưa đầy đủ.

    - Nguyên nhân dẫn đến việc huỷ bản án phúc thẩm:

    1. Thiếu sót trong việc xem xét, đánh giá chứng cứ;

    2. Thiếu sót trong việc áp dụng quy định của luật tố tụng dân sự trong việc xác định những người tham gia tố tụng.

    Cập nhật bởi phamthanhhuu ngày 28/05/2013 03:43:43 CH
     
    2966 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận