Số hiệu
|
06/2007/KDTM-GĐT
|
Tiêu đề
|
Quyết định giám đốc thẩm số: :06/2007/KDTM-GĐT ngày 15 tháng 8 năm 2007 về việc tranh chấp hợp đồng
|
Ngày ban hành
|
15/08/2007
|
Cấp xét xử
|
Giám đốc thẩm
|
Lĩnh vực
|
Kinh tế
|
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
TÒA KINH TẾ
------------------
Quyết định giám đốc thẩm
Số:06/2007/KDTM-GĐT
Ngày 15 tháng 8 năm 2007
V/v: tranh chấp hợp đồng
Đầu tư
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc Lập - Tự do - Hạnh phúc
----------------------------------
|
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA KINH TẾ
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO TẠI HÀ NỘI
Với thành phần Hội đồng giám đốc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Bùi Thị Hải;
Các Thẩm phán: Ông Bùi Huy Tiến;
Ông Bùi Thế Linh.
Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Ông Nguyễn Anh Hoàng, Thẩm tra viên chính Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao tham gia phiên tòa: Bà Vũ Thị Thanh Nga - Kiểm sát viên.
Họp phiên tòa ngày 15 tháng 8 năm 2007, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao, để giám đốc thẩm vụ án kinh doanh thương mại về tranh chấp hợp đồng đầu tư giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Công ty TNHH Hoàng Sơn Hải;
Trụ sở tại: 231 Hậu Giang, phường 5, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh, do ông Huỳnh Ngọc Dương đại diện theo giấy ủy quyền ngày 12/02/2006 của ông Lý Thế Hùng là Chủ tịch Hội đồng thành viên công ty;
Bị đơn: Công ty TNHH Thương Mại Kim Phát Bến Tre;
Trụ sở tại: 170 B khóm 2, phường 7, thị xã Bến Tre, tỉnh Bến Tre do bà Lữ Mỹ Vân là giám đốc công ty làm đại diện;
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Ông Nguyễn Văn Hương, trú tại 35 Nguyễn Đình Chi, phường 9, quận 8, thành phố Hồ Chí Minh.
- Ông Võ Văn Chánh, trú tại 248 D Nguyễn Văn Tư, phường 7, thị xã Bến Tre, tỉnh Bến Tre.
NHẬN THẤY
Theo đơn khởi kiện ngày 31/3/2005 của Công ty TNHH Hoàng Sơn Hải (sau đây gọi tắt là Công ty Hoàng Sơn Hải) thì do hợp đồng góp vốn ngày 01/5/2004, Công ty Hoàng Sơn Hải đã góp vốn vào Công ty TNHH Thương Mại Kim Phát Bến Tre (sau đây gọi tắt là Công ty Kim Phát) với số tiền là 1.500.000.000 đồng. Sau khi Công ty Hoàng Sơn Hải góp vốn, Công ty Kim Phát đã không tiến hành các thủ tục góp vốn theo quy định của Luật Doanh nghiệp. Công ty Kim Phát đã nhiều lần cam kết nhưng không thực hiện việc trả lại Công ty Hoàng Sơn Hải 1.500.000.000 đồng. Công ty Hoàng Sơn Hải yêu cầu Tòa án buộc Công ty Kim Phát trả cho Công ty Hoàng Sơn Hải 1.500.000.000 đồng. Trong quá trình giải quyết tại Tòa án, Công ty Hoàng Sơn Hải còn yêu cầu Công ty Kim Phát phải trả cả lãi suất.
Bà Lữ Mỹ Vân là giám đốc Công ty Kim Phát trình bày:
Ngày 10/3/2004, Công ty Hoàng Sơn Hải ký hợp đồng góp vốn 1.000.000.000 đồng với Công ty Kim Phát để đầu tư sản xuất sơ chế cơm dừa. Công ty Hoàng Sơn Hải đã giao cho Công ty Kim Phát bằng tiền mặt 1.000.000.000 đồng. Đến ngày 01/5/2004 Công ty Kim Phát còn nhận của Công ty Hoàng Sơn Hải 500.000.000 đồng nữa nên hai bên ký hợp đồng mới thỏa thuận: Công ty Hoàng Sơn Hải góp vốn đầu tư vốn 1.500.000.000 đồng cho kinh doanh; Tháng đầu tiên (tháng 4/2004) chia lời 4%, từ tháng thứ hai trở đi chia lời 5%; Thời gian thực hiện hợp đồng là 6 tháng. Đến tháng 9/2004, do Công ty Kim Phát kinh doanh không hiệu quả không chia lời cho Công ty Hoàng Sơn Hải nên Công ty Hoàng Sơn Hải thông báo chấm dứt hợp đồng góp vốn và yêu cầu thu hồi vốn góp 1.500.000.000 đồng. Bà Vân đề nghị hóa giá tài sản đã thế chấp cho Công ty Hoàng Sơn Hải để trả nợ.
Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số01/KDTM-ST ngày 05/5/2006, Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre quyết định:
Chấp nhận yêu cầu của CS, buôc Công ty TNHH Kim Phát phải trả cho Công ty TNHH Hoàng Sơn Hải số tiền 1.905.000.000 đồng trong đó nợ gốc là 1.500.000.000 đồng và tiền lãi 405.000.000 đồng.
Công ty TNHH Hoàng Sơn Hải giao nộp cho cơ quan Thi hành án Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00704 – QSDĐ/1976 QĐ-UB (TX) (mang tên ông Phạm Văn Khiêm phường 7 thị xã Bến Tre, tỉnh Bến Tre) khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Ngoài ra, còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của đương sự.
Ngày 02/10/2006, Công ty Hoàng Sơn Hải có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm bản án sơ thẩm nêu trên.
Tại Quyết định kháng nghị số06/KN-AKT ngày 17/4/2007, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số01/KDTM-ST ngày 05/5/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre và đề nghị Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo hướng hủy bản án sơ thẩm nêu trên, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật, với lý do:
- Tòa án cấp sơ thẩm không đưa tài sản Công ty Kim Phát đã nhất trí hóa giá để trả nợ cho Công ty Hoàng Sơn Hải mà chỉ tuyên Công ty TNHH Hoàng Sơn Hải có trách nhiệm trả lại cho cơ quan Thi hành án Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00704 là không đúng.
- Áp dụng Pháp lệnh hợp đồng kinh tế đã hết hiệu lực để giải quyết vụ án là vi phạm việc áp dụng pháp luật.
XÉT THẤY
Khoản tiền vốn 1.500.000.000 đồng, Công ty Hoàng Sơn Hải đầu tư vào Công ty Kim Phát hai bên đều thừa nhận, không có tranh chấp. Bị đơn – Công ty Kim Phát chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn – Công ty Hoàng Sơn Hải là trả vốn gốc là 1.500.000.000 đồng và tiền lãi suất. Sau khi xét xử sơ thẩm, Công ty Kim Phát không kháng cáo và không khiếu nại yêu cầu giám đốc thẩm đối với bản án sơ thẩm.
Để bảo đảm cho việc hoàn lại vốn theo hợp đồng, bà Lữ Mỹ Vân là giám đốc Công ty Kim Phát đã viết Giấy cam kết ngày 01/5/2004, theo đó bà Vân thế chấp cho Công ty Hoàng Sơn Hải Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00704 – QSDĐ/1976 QĐ-UB (TX) và một số giấy tờ liên quan đến quyền sử dụng đất này, án Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00704 – QSDĐ/1976 QĐ-UB (TX) mang tên ông Phạm Văn Khiêm, nguyên là chồng bà Vân. Bà Vân và ông Khiêm đã ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn số 71/QĐCNTTLH ngày 08/8/2003 của Tòa án nhân dân thị xã Bến Tre. Trước đó, ngày 08/7/2003, ông Khiêm có Giấy cam kết không nhận tài sản chung khi ly hôn và “những tài sản chung này sẽ cho hai đứa con của tôi là Phạm Minh Khánh sinh năm 1980 và Phạm Đăng Khoa sinh năm 1983”. Giấy cam kết của ông Khiêm được UBND phường xác nhận. Ngày 10/3/2004, anh Khánh và anh Khoa viết giấy cam kết “đồng ý cho mẹ tôi là Lữ Mỹ Vân được trọn quyền mua bán miếng đất 2277 m2 thuộc tờ bản đồ 12 số thửa 324 Quyền sử dụng đất số 00704 – QSDĐ/1976 QĐUBTX” Giấy cam kết này không có công chứng hoặc chứng thực của cơ quan có thẩm quyền. Cho nên, khi giải quyết liên quan đến tài sản này Tòa án cấp sơ thẩm cần phải đưa ông Khiêm, anh Khánh, anh Khoa vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Việc Tòa án cấp sơ thẩm không đưa ba người nêu trên tham gia tố tụng là vi phạm thủ tục tố tụng và không giải quyết được toàn diện vụ án.
Việc Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Pháp lệnh hợp đồng kinh tế để giải quyết vụ án này là đúng vì hợp đồng góp vốn được ký vào ngày 1/5/2004, khi Pháp lệnh hợp đồng kinh tế đang còn hiệu lực. Theo Nghị quyết số 45/2005/QH11 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 7 thì Pháp lệnh hợp đồng kinh tế hết hiệu lực từ ngày Bộ luật tố tụng dân sự có hiệu lực ngày 01/01/2006.
Về trích yếu bản án: góp vốn là một hình thức đầu tư, cho nên theo hướng dẫn tại điểm 2.3 mục 2 phần I Nghị quyết số01/2005/NQ-HDTP ngày 31/3/2005 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và theo quy định tương ứng tại điểm m khoản 1 Điều 9 Bộ luật tố tụng dân sự thì trích yếu bản án phải ghi là tranh chấp hợp đồng đầu tư.
Bởi các lẽ trên và căn cứ vào khoản 2 Điều 296; khoản 3 Điều 297; Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự:
QUYẾT ĐỊNH
Hủy Bản án Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số01/KDTM-ST ngày 05/5/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre ; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
CÁC THẨM PHÁN
Bùi Thế Linh Bùi Huy Tiến
(Đã ký) (Đã ký)
THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Bùi Thị Hải
(Đã ký)