Quyết định giám đốc thẩm số: 04/2010/KDTM-GĐT ngày 19 tháng 03 năm 2010 về việc tranh chấp hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa

Chủ đề   RSS   
  • #263935 24/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định giám đốc thẩm số: 04/2010/KDTM-GĐT ngày 19 tháng 03 năm 2010 về việc tranh chấp hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa

    Số hiệu

    04/2010/KDTM-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm số:04/2010/KDTM-GĐT ngày 19 tháng 03 năm 2010 về việc tranh chấp hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa

    Ngày ban hành

    19/03/2010

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Kinh tế

     

    TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

    TÒA KINH TẾ

    ------------------

    Quyết định giám đốc thẩm

    Số:04/2010/KDTM-GĐT

    Ngày 19 tháng 03 năm 2010

    V/v: tranh chấp hợp đồng đại lý

    mua bán hàng hóa

    CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
    Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
    ----------------------------------T3

    NHÂN DANH

    NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

    TÒA KINH TẾ

    TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO TẠI HÀ NỘI

    Với thành phần Hội đồng giám đốc thẩm gồm có:

    Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Bùi Thế Linh;

    Các Thẩm phán: Bà Bùi Thị Hải;

    Ông Nguyễn Văn Tiến.

    Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao tham gia phiên tòa: Ông Đoàn Văn Thắng-Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

    Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Ông Nguyễn Đức Thường.

    Ngày 19 tháng 03 năm 2010, tại trụ sở Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án kinh doanh, thương mại theo Quyết định số01/KN-GĐT-V12 ngày 18/01/20010 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị đối với Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số05/2009/KDTM-PT ngày 11/08/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long, giữa các đương sự:

    Nguyên đơn: Công ty TNHH thương mại dịch vụ Nam Giang; có trụ sở tại số 133/11 đường Hồ Văn Huê, phường 9, quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh, do ông Nguyễn Công Trưng làm đại diện theo giấy ủy quyền ngày 14/7/2008 của Giám đốc Công ty;

    Bị đơn: Đại lý thức ăn tôm Minh Tuyết-Ngọc Nhi; địa chỉ: số 12 đường Phan Đình Phùng, phường 8, thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long; do và Lưu Thị Tuyết làm đại diện;

    Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

    Bà Huỳnh Ngọc Minh Châu; địa chỉ: số 32 Bác Ái, phường Bình Thọ, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh;

    Ông Nguyễn Quốc Nguyên; địa chỉ: Khu phố 7, phường Hưng Long thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận.

    NHẬN THẤY

    Theo đơn khởi kiện đề ngày 14/7/2008 và các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn xuất trình thì:

    Ngày 14/01/2008, Công ty TNHH thương mại dịch vụ Nam Giang (sau đây viết tắt là Công ty Nam Giang) có ký với bà Lưu Thị Tuyết-Chủ Đại lý thức ăn tôm Minh Tuyết-Ngọc Nhi (sau đây viết tắt là Đại lý Minh Tuyết-Ngọc Nhi) Hợp đồng mua bán số012/2008/NAGI-HĐ với nội dung tóm tắt như sau:

    Về chủ thể: Đại lý Minh Tuyết-Ngọc Nhi, địa chỉ số 12 đường Phan Đình Phùng, phường 8, thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long…mã số thuế 1500439171.

    - Về hàng hóa: Prawnbac; 20 gói/thùng; giá 265.000 đồng/thùng. Giao số lượng theo đặt hàng của từng đợt mua. Đại lý cam két bán đúng giá mà Công ty Nam Giang quy định (Điều 1).

    - Vể hoa hồng và phương thức thanh toán: Đại lý được mức chiết khấu mua hàng 20% giá cho mỗi lô sản phẩm. Mức chiết khấu tiền mặt là 5% nếu Đại lý thanh toán tiền mặt; mức hạn định công nợ tối đa cho từng lô sản phần là 30 ngày, kể từ ngày đại lý nhận hàng. Nếu quá 30 ngày, Đại lý không thanh toán thì Công ty Nam Giang có quyền từ chối giao hàng tiếp theo…(Điều 4);

    - Công ty Nam Giang cam kết không mở thêm đại lý trên địa bàn đã giao cho Đại lý, trừ Đại lý Hải Hương, kể từ ngày ký hợp đồng đến hết ngày 31/12/2008. Đại lý được quyền phân phối trong khu vực các tỉnh: Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre.

    Thực hiện hợp đồng trên, vào các ngày 09/3/2008, 04/4/2008 và ngày 17/4/2008, bà Tuyết có đơn đặt hàng, Công ty Nam Giang đã xuất hóa đơn VAT vào các ngày 12/3/2008, 07/4/2008 và ngày 17/4/2008, theo đó Công ty đã giao hàng và bà Tuyết, thay mặt Đại lý Minh Tuyết-Ngọc Nhi đã thanh toán đủ tiền hàng. Ngày 10/5/2008, bà Tuyết có đơn đặt hàng với số lượng 50 thùng Prawnbac, ngày 12/5/2008, Công ty Nam Giang xuất hóa đơn VAT số 0126642 với giá trị tiền hàng là 198.750.000 đồng nhưng sau đó Đại lý Minh Tuyết-Ngọc Nhi không thanh toán. Vào ngày 02/6/2008, Đại lý Minh Tuyết-Ngọc Nhi gửi bản fax cho Công ty Nam Giang với nội dung: Công ty đã vi phạm hợp đồng như dùng Đại lý Hải Hường bán hàng trùng với hệ thống của Đại lý, làm náo loạn thị trường; giao hàng cho Đại lý Huy Thuận bán ra thị trường với giá cả thấp, từ đó đề nghị nên chấm dứt hợp đồng và Công ty tất toán hợp đồng năm 2008, giải quyết tồn đọng do công sức mở thị trường của Đại lý. Căn cứ đề nghị trên của Đại lý, ngày 13/6/2008, Công ty Nam Giang có văn bản gửi bà Tuyết với nội dung: yêu cầu Đại lý thanh toán 198.750.000 đồng từ ngày 13/6/2008 đền ngày 15/6/2008; Đại lý Minh Tuyết-Ngọc Nhi không còn là đại lý. Công ty Nam Giang được quyền mở đại lý mới ở 5 tỉnh: Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre kể từ ngày chấm dứt giao dịch với Đại lý Minh Tuyết-Ngọc Nhi. Do bà Tuyết không thanh toán số tiền nêu trên và không có văn bản phản hồi nên Công ty Nam Giang đã khởi kiện ra Tòa án với yêu cầu buộc bà Tuyết phải trả số tiền hàng là 198.750.000 đồng và tiền lãi phát sinh của tháng 6, tháng 7/2008 là 5.962.500 đồng.

    - Bị đơn là Đại lý Minh Tuyết-Ngọc Nhi do bà Tuyết làm đại diện đã có đơn phản tố ngày 26/8/2008 và đơn phản tố bổ sung ngày 24/11/2008 với nội dung: thừa nhận còn nợ số tiền hàng của lô hàng tháng 5/2008 là 198.750.000 đồng như Công ty Nam Giang trình bày. Lý do chưa thanh toán số tiền này là vì Công ty Nam Giang đã đơn phương chấm dứt hợp đông, bán phá giá mặt hàng Prawnbac trên thị trường thuộc quyền phân phối của bà Tuyết, nên đã gây thiệt hại cho Đại lý. Bà Tuyết yêu cầu buộc Công ty Nam Giang phải bồi thường số tiền là 1.998.284.000 đồng, bao gồm các khoản thiệt hại sau:

    - Thiệt hại do lợi nhuận bị mất từ ngày 01/01/2008 đến ngày 15/6/2008 là 895.713.500 đồng;

    - Thiệt hại do doanh số, lợi nhuận bị mất từ ngày 15/6/2008 đến ngày 31/12/2008 là 1.058.570 đồng;

    - Thiệt hại do lỗ 908 kg Prawnbac là 44.000.000 đồng.

    Các khoản thiệt hại trên là dựa trên doanh thu của năm 2007 của Đại lý. Sau khi Công ty Nam Giang bồi thường số tiền trên thì bà Tuyết sẽ thanh toán số tiền hàng còn thiếu. Về khoản tiền lãi 5.962.500 đồng thì theo yêu cầu của Công ty Nam Giang, bà Tuyết không đồng ý với lý do Công ty Nam Giang đã đơn phương chấm dứt hợp đồng..

    - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Huỳnh Ngọc Minh Châu trình bày: giữa bà và bà Tuyết có ký hợp đồng thuê bằng kỹ sư thủy sản vào ngày 16/5/2005 với thời hạn hợp đồng đến ngày 30/12/2005. Khi hết hạn hợp đồng, bà có yêu cầu bà Tuyết trả lại bằng nhưng bà Tuyết nói đã bị mất. Bà không hề biết việc bà Tuyết ký hợp đồng với Công ty Nam Giang. Bà Tuyết tự ký hợp đồng với Công ty Nam Giang thì tự chịu trách nhiệm, không liên quan gì đến bà.

    Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Quốc Nguyên trình bày: ông có đồng ý cho bà Tuyết ký vào đơn phản tố đối với Công ty Nam Giang và đồng ý với những nội dung phản tố.

    Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số05/2008/KDTM-ST ngày 12/12/2008 của Tòa án nhân dân thị xã Vĩnh Long áp dụng các Điều 167, 168, 319 Luật Thương mại; các Điều 137, 305 Bộ luật dân sự và quyết định: “Tuyên bố hợp đồng số012/2008/NAGI-HĐ ngày 14/01/2008 vô hiệu. Công nhận sự tự nguyện của bà Lưu Thị Tuyết về việc trả nợ cho Công ty Nam Giang số tiền 9.897.750 đồng.

    Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Lưu Thị Tuyết đòi Công ty Nam Giang bồi thường thiệt hại 1.998.284.000 đồng.

    Huỳnh Ngọc Minh Châu, Nguyễn Quốc Nguyên không phải chịu trách nhiệm gì đối với Công ty Nam Giang cũng như đối với bà Lưu Thị Tuyết…”. Ngoài ra, bản án sơ thẩm nêu trên còn quyết định về án phí kinh doanh, thương mại sơ thẩm mà nguyên đơn và bị đơn phải chịu…

    Ngày 14/12/2008, bà Lưu Thị Tuyết có đơn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm.

    Tại Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số05/2009/KDTM-PT ngày 11/08/2009, Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long quyết định: “Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị đơn bà Lưu Thị Tuyết. Sửa một phần Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số05/2008/KDTM-ST ngày 12/12/2008 của Tòa án nhân dân thị xã Vĩnh Long (nay là thành phố Vĩnh Long) về việc tranh chấp hợp đồng đại lý.

    1. Công nhận Hợp đồng mua bán số012/2008/NAGI-HĐ ngày 14/01/2008 giữa Công ty TNHH thương mại dịch vụ Nam Giang và Đại lý thức ăn tôm Minh Tuyết-Ngọc Nhi là hợp đồng hợp pháp.

    2. Buộc Công ty TNHH thương mại dịch vụ Nam Giang do ông Phạm Văn Nga làm giám đốc có trách nhiệm bồi thường cho bà Lưu Thị Tuyết-Đại diện Đại lý thức ăn tôm Minh Tuyết-Ngọc Nhi số tiền 858.285.000 đồng…trừ dư nợ Công ty 198.750.000 đồng, còn trả 660.535.000 đồng…”

    Sau khi xét xử phúc thẩm, Công ty Nam Giang có đơn khiếu nại đề ngày 01/9/2009 đối với bản án phúc thẩm nêu trên.

    Tại Quyết định số01/KN-GĐT-V12 ngày 18/01/2010, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã kháng nghị Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số05/2009/KDTM-PT ngày 11/08/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long và đề nghị Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm theo hướng hủy Bản án kinh doanh, thương mại nêu trên và giữ nguyên Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số05/2008/KDTM-ST ngày 12/12/2008 của Tòa án nhân dân thị xã Vĩnh Long, với nhận định như sau:

    “Thứ nhất: Lý do Công ty Nam Giang chấm dứt hợp đồng trước thời hạn với Đại lý Minh Tuyết-Ngọc Nhi là do yêu cầu của đại lý. Cụ thể, ngày 02/6/2008 Đại lý Minh Tuyết-Ngọc Nhi có gửi văn bản cho Công ty Nam Giang yêu cầu chấm dứt hợp đồng. Hơn nữa, Đại lý Minh Tuyết-Ngọc Nhi vi phạm nghĩa vụ thanh toán, cụ thể vi phạm Điều 4 của hợp đồng.

    Bà Lưu Thị Tuyết cho rằng Công ty Nam Giang đã vi phạm một số diều khoản trong hợp đồng như giao hàng cho đại lý Huy Thuận bán phá giá nhưng không đưa được chứng cứ để chứng minh. Theo tài liệu, hồ sơ vụ án, Công ty Nam Giang có xuất trình các chứng cứ chứng minh: Nhóm đối tượng có liên quan đến địa bàn kinh doanh của bà Lưu Thị Tuyết nhưng khác sản phẩm (loại sản phẩm dùng cho cá) chứ không phải loại sản phẩm dùng cho tôm, giao cho bà Tuyết, do đó không ảnh hưởng gì đến việc kinh doanh của bà Lưu Thị Tuyết.

    Ngày 13/6/2008, Công ty Nam Giang có thư gửi bà Lưu Thị Tuyết yêu cầu thanh toán số tiền còn nợ cho Công ty, thông báo chấm dứt hợp đồng kể từ ngày 15/6/2008 nhưng Đại lý Minh Tuyết-Ngọc Nhi không có văn bản trả lời.

    Theo quy định tại Điều 426 Bộ luật dân sự 2005; điểm b, khoản 4 Điều 312; khoản 3 Điều 177 Luật Thương mại năm 2005, việc Công ty Nam Giang đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng đại lý số012/2008/NAGI-HĐ là phù hợp với quy định của pháp luật.

    Thứ hai: Tại thời điểm xác lập hợp đồng, bà Tuyết với danh nghĩa là hộ kinh doanh cá thể Ngọc Nhi. Giấy đăng ký kinh doanh số 54A 8000536 do Phòng Công thương thị xã Vĩnh Long cấp ngày 22/3/2005, Người đại diện theo pháp luật là Huỳnh Ngọc Minh Châu. Giấy đăng ký kinh doanh do ông Nguyễn Quốc Nguyên đứng tên không phù hợp với nội dung chủ thể đứng tên trong hợp đồng số012/2008/NAGI-HĐ cụ thể: Như địa chỉ kinh doanh, mã số thuế đều khác nhau do đó ông Nguyễn Quốc Nguyên không liên quan đến Hợp đồng số012/2008/NAGI-HĐ ngày 14/01/2008 giữa Công ty Nam Giang và Đại lý Minh Tuyết-Ngọc Nhi. Bà Tuyết và ông Nguyên có làm hợp đồng “cho thuê bằng thủy sản” và một giấy ủy quyền đề ngày 01/01/2007 được Ủy ban nhân dân phường 8, thị xã Vĩnh Long chứng thực ngày 16/10/2008, sau đó thấy việc chứng thực là không đúng với quy định của pháp luật nên ngày 03/12/2008, Ủy ban nhân dân phường 8 đã lập biên bản thu hồi việc chứng thực cho thuê bằng thủy sản, nhưng thiếu sót không thu hồi giấy ủy quyền của ông Nguyên cho bà Tuyết. Xét về hình thức giáy ủy quyền ông Nguyên lập cho bà Tuyết được Ủy ban nhân dân phường 8 thị xã Vĩnh Long chứng thực ngày 16/10/2008. Hơn nữa, nội dung ủy quyền thay mặt tôi ký kết hợp đồng đại lý kinh doanh với bất kỳ Công ty thuốc thú y-thủy sản. Nhưng việc kinh doanh thuốc thú y-thủy sản, theo quy định của pháp luật thì đây là loại ngành nghề kinh doanh có điều kiện, phải tuên thủ các quy định của pháp luật. Vì vậy, việc ông Nguyên ủy quyền cho bà Tuyết là chưa đảm bảo quy định của pháp luật. Do vậy, hình thức và nội dung giấy ủy quyền của ông Nguyên cho bà Tuyết là không có giá trị pháp lý.

    Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ vào giấy đăng ký kinh doanh, giấy ủy quyền của ông Nguyên, xác định hợp đồng số012/2008/NAGI-HĐ ngày 14/01/2008 giữa Công ty Nam Giang và Đại lý Minh Tuyết-Ngọc Nhi là hợp đồng hợp pháp là không có căn cứ vì:

    Chủ thể xác lập hợp đồng đại lý số012/2008/NAGI-HĐ ngày 14/01/2008 được xác định giữa một bên là Công ty Nam Giang với một bên là bà Lưu Thị Tuyết chủ đại lý thức ăn tôm Minh Tuyết-Ngọc Nhi tại số 298 Phạm Hùng, phường 9, thị xã Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long. Tuy nhiên, về phía Công ty Nam Giang là một tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp nên được công nhận là thương nhân, còn đối với bà Lưu Thị Tuyết thì không phải là thương nhân vì người đứng tên trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hộ kinh doanh cá thể Ngọc Nhi (tức Đại lý Minh Tuyết-Ngọc Nhi) tại thời điểm xác lập hợp đồng là Huỳnh Ngọc Minh Châu chứ không phải bà Lưu Thị Tuyết. Bà Tuyết lấy danh nghĩa chủ đại lý thức ăn tôm đứng ra ký hợp đồng đại lý với Công ty Nam Giang là vi phạm Điều 167 Luật Thương mại năm 2005. Việc ký hợp đồng bà Tuyết không được Huỳnh Ngọc Minh Châu ủy quyền do đó hợp đòng bị vô hiệu toàn bộ ngay tại thời điểm xác lập.

    Từ những nội dung đã phân tích nêu trên có đủ căn cứ xác định bản án phúc thẩm không phản ánh đúng thực tế khách quan và không có căn cứ. Bản án sơ thẩm là phù hợp với thực tế và có căn cứ.

    XÉT THẤY

    1. Về tư cách tham gia tố tụng của bị đơn:

    Theo Hợp đồng số012/2008/NAGI-HĐ ngày 14/01/2008 thì Công ty Nam Giang ký với Đại lý Minh Tuyết-Ngọc Nhi, có địa chỉ tại 298 Phạm Hùng, phường 9, thị xã Vĩnh Long (nay là thành phố Vĩnh Long) do bà Lưu Thị Tuyết, Chủ đại lý làm đại diện. Tuy nhiên, theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 54A-8000536 do Phòng công thương-Ủy ban nhân dân thị xã Vĩnh Long cấp đăng ký lần đầu ngày 22/3/2005 và cấp đăng ký bổ sung lần 3 ngày 08/10/2007 cho hộ kinh doanh cá thể Ngọc Nhi thì người đứng tên là bà Huỳnh Ngọc Minh Châu. Như vậy, việc bà Lưu Thị Tuyết lấy danh nghĩa là chủ đại lý thức ăn tôm Minh Tuyết-Ngọc Nhi là không phù hợp. Mặt khác, theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, tại các biên bản hòa giải: ngày 01/10/2008 (BL 301-304), ngày 03/11/2008 (BL 308-310) và biên bản lấy lời khai ngày 20/10/2008 (BL 305-306), bà Tuyết thừa nhận: người đứng tên đăng ký là bà Châu do bà không đủ điều kiện nhưng việc mua bán do Bà quyết định; khi ký kết hợp đồng nêu trên thì bà Châu không biết;và việc của Cửa hàng 298 Phạm Hùng gồm giao dịch ký kết hợp đồng là do Bà quyết định nên bà chịu trách nhiệm hết, bà Châu không phải chịu trách nhiệm. Tại Biên bản lấy lời khai ngày 22/10/2008 (BL 307), bà Châu xác nhận: Bà không biết việc bà Tuyết ký hợp đồng với Công ty Nam Giang; bà Tuyết tự ký hợp đồng với Công ty Nam Giang thì tự chịu trách nhiệm. Do đó, có đủ căn cứ để khẳng định bà Tuyết là người trực tiếp giao dịch, thanh toán tiền hàng cho Công ty Nam Giang và giải quyết các hậu quả phát sinh từ Hợp đồng mua bán số012/2008/NAGI-HĐ ký ngày 14/01/2008 với Công ty Nam Giang. Kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị đơn trong vụ án này là bà Lưu Thị Tuyết là có căn cứ. Đồng thời, kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhận định Hợp đồng số 012 nêu trên được ký kết giữa Công ty Nam Giang với bà Tuyết trên danh nghĩa hộ kinh doanh cá thể Ngọc Nhi theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 54A 8000536 đứng tên Huỳnh Ngọc Minh Châu, chứ không phải ký với danh nghĩa hộ kinh doanh cá thể Ngọc Nhi dứng tên ông Nguyễn Quốc Nguyên trên Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là có cơ sở. Việc Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ vào Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 55F8 001358 do Phòng Tài chánh-Kế hoạch-Ủy ban nhân dân huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre cấp ngày 25/5/2006 cho hộ kinh doanh Ngọc Nhi đứng tên ông Nguyễn Quốc Nguyên cho bà Lưu Thị Tuyết để xác định bà Tuyết khi ký Hợp đồng số 012 nêu trên với danh nghĩa hộ kinh doanh cá thể đứng tên ông Nguyên là không phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án này.

    2. Về tính hợp pháp của Hợp đồng mua bán số012/2008/NAGI-HĐ ngày 14/01/2008

    Theo nội dung của Hợp đồng số 012 nêu trên thì có căn cứ đ�� xác định đây là hợp đồng đại lý mua bán hàng hóa với hình thức đại lý độc quyền. Theo quy định tại khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại năm 2005 thì “Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh”. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 7 Nghị định số59/2006/NĐ-CP ngày 12/6/2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện và khoản 5 mục A Phụ lục III ban hành kèm theo Nghị định số 59 nêu trên thì việc kinh doanh thuốc thủy sản là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Vì không đủ điều kiện nên bà Tuyết đã ký hợp đồng ngày 16/5/2005 với bà Châu để thuê bằng kỹ sư thủy sản của bà Châu nhằm được kinh doanh ngành nghề: thuộc thủy sản, theo đó lấy danh nghĩa Chủ đại lý thức ăn tôm Minh Tuyết-Ngọc Nhi để ký Hợp đồng mua bán số012/2008/NAGI-HĐ ngày 14/01/2008 với Công ty Nam Giang, làm cho Công ty Nam Giang hiểu sai lệch về tư cách chủ thể ký hợp đồng của bà Tuyết. Do đó, việc Tòa án cáp sơ thẩm tuyên bố hợp đồng nêu trên bị vô hiệu ngay từ thời điểm các bên xác lập hợp đồng là phù hợp với quy định tại Điều 132 Bộ luật dân sự 2005. Tòa án cấp phúc thẩm xác định hợp đồng nêu trên là hợp pháp là không có căn cứ.

    Về xử lý hậu quả của hợp đồng vô hiệu, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Điều 137 Bộ luật dân sự năm 2005 là đúng. Tuy nhiên, việc Tòa án cấp sơ thẩm xác định lỗi của các bên tham gia ký kết dẫn đến hợp đồng này bị vô hiệu là ngang nhau là không thuyết phục bởi vì nguyên nhân chính là cho Hợp đồng mua bán số012/2008/NAGI-HĐ ngày 14/01/2008 bị vô hiệu như đã phân tích ở trên là do bà Tuyết. Công ty Nam Giang cũng có lỗi khi không tìm hiểu về chủ thể ký hợp đồng với mình. Đồng thời, Tòa án cấp sơ thẩm chưa xác định được thiệt hại thực tế xảy ra từ việc vô hiệu hợp đồng, chưa làm rõ việc bà Tuyết bị thiệt hại khoản 44.000.000 đồng do nhận hàng của Công ty theo hợp đồng phải bán lỗ vì Công ty Nam Giang đã bán mặt hàng thuốc thủy sản Prawnbac vào thị trường mà Công ty giao cho bà Tuyết phân phối độc quyền; chưa làm rõ thuốc Prawnbac 454 gam là loại thuốc dùng cho cá hay tôm vì theo Catalogue về thuốc Prawnbac (BL98) do Công ty Nam Giang xuất trình thì đây là “chế phẩm sinh học của Hoa Kỳ-mạch sống cho đầm nuôi tôm”, từ đó chưa làm rõ khiếu nại của bà Tuyết cho rằng trong thời hạn thực hiện Hợp đồng mua bán số012/2008/NAGI-HĐ ngày 14/01/2008, Công ty Nam Giang đã bán sản phẩm này cho một số tổ thức, cá nhân trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long là bán thức ăn cho tôm hay cá (BL 259-269). Ngoài ra, theo hồ sơ vụ án thì bà Tuyết thừa nhận còn nợ tiền hàng là 198.750.000 đồng theo đơn đặt hàng ngày 10/5/2008, nên theo quy định tại Điều 306 Luật Thương mại năm 2005 thì phát sinh khoản tiền lãi do bà Tuyết chậm thanh toán. Các khoản thiệt hại thực tế phải được xác định để phân chia thiệt hại theo tỷ lệ lỗi của mỗi bên nhằm xử lý hậu quả từ việc Hợp đồng số 012 nêu trên bị vô hiệu.

    Mặt khác, theo hồ sơ vụ án thì sau khi xét xử sơ thẩm, bà Tuyết đã có đơn kháng cáo (BL 364-365), theo yêu cầu của Tòa án cấp sơ thẩm, ngày 17/12/2008, bà Tuyết nộp tạm ứng án phí phúc thẩm là 50.000 đồng theo Biên lai số 02793 (BL 362). Tuy nhiên, việc nộp tạm ứng án phí phúc thẩm nêu trên của bà Tuyết là không đúng với quy định tại Điều 16, khoản 2 Điều 17 Nghị định số 70/CP ngày 12/6/1997 của Chính phủ về án phí, lệ phí Tòa án.

    Bởi các lẽ trên;

    Căn cứ vào khoản 2 Điều 291; khoản 3 Điều 297; khoản 1, 3 Điều 299 của Bộ luật tố tụng dân sự,

    QUYẾT ĐỊNH

    Hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số05/2009/KDTM-PT ngày 11/08/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số05/2008/KDTM-ST ngày 12/12/2008 của Tòa án nhân dân thị xã Vĩnh Long (nay là thành phố Vĩnh Long) Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Long để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

    CÁC THẨM PHÁN

    Bùi Thị Hải Nguyễn Văn Tiến

    (Đã ký) (Đã ký)

    THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

    Bùi Thế Linh

    (Đã ký)

     

    Cập nhật bởi phamthanhhuu ngày 24/05/2013 03:49:35 CH
     
    6602 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận