Số hiệu
|
03/2008/KDTM-GĐT
|
Tiêu đề
|
Quyết định giám đốc thẩm số:03/2008/KDTM-GĐT ngày 14 tháng 5 năm 2008 về việc tranh chấp hợp đồng Mua bán hàng hóa
|
Ngày ban hành
|
14/05/2008
|
Cấp xét xử
|
Giám đốc thẩm
|
Lĩnh vực
|
Kinh tế
|
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
TÒA KINH TẾ
------------------
Quyết định giám đốc thẩm
Số:03/2008/KDTM-GĐT
Ngày 14 tháng 5 năm 2008
V/v: tranh chấp hợp đồng
Mua bán hàng hóa
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
----------------------------------
|
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA KINH TẾ
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO TẠI HÀ NỘI
Với thành phần Hội đồng giám đốc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Bùi Thị Hải;
Các Thẩm phán: Bà Hoàng Thị Bắc;
Bà Nguyễn Thị Hoàng Bạch Yến.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao tham gia phiên tòa: Bà Vũ Thị Thanh Nga-Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Bà Phạm Ngọc Hà
Ngày 14 tháng 5 năm 2008, tại trụ sở Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án kinh doanh, thương mại theo Quyết định kháng nghị số04/2008/KN-KT ngày 11 tháng 3 năm 2008 đối với Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Công ty TNHH Tôm giống số 01 Bạc Liêu. Trú tại số C25, Trung tâm thương mại, đường Bà Triệu, phường 3, thị xã Bạc Liêu. Do ông Bùi Quang Nhơn đại diện hợp pháp cho Công ty tham gia tố tụng.
Bị đơn: Ông Huỳnh Hải Phụng. Sinh năm 1958. Trú tại số 39, Hùng Vương, khóm 5, thành phố Cà Mau. Ông Phụng ủy quyền cho bà Ngô Ngọc Anh ngụ cùng địa chỉ tham gia tố tụng.
NHẬN THẤY
Theo trình bày của nguyên đơn tại đơn khởi kiện ngày 08/4/2005 và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì:
Trong năm 2004, Công ty TNHH Tôm giống số 01 Bạc Liêu (sau đây gọi tắt là Công ty số 1) có ký kết hợp đồng phân phối với ông Huỳnh Hải Phụng – Giám đốc Trung tâm phân phối tôm giống số 1 Anh Phụng.
Quá trình mua bán và phân phối diễn ra cho đến ngày 30/6/2004 thì hai bên chám dứt. Tính đến ngày 22/7/2004 số tiền ông Phụng còn nợ Công ty số 1 là 187.307.000 đồng.
Nguyên đơn yêu cầu ông Huỳnh Hải Phụng phải thanh toán số tiền 187.307.000 đồng và lãi suất chậm trả tính từ 01/8/2004 đến thời điểm Tòa thụ lý giải quyết sơ thẩm là 14 tháng x 1% = 26.180.000 đồng. Tổng cộng số tiền phải thanh toán là 213.487.000 đồng.
Tại đơn yêu cầu phản tố ngày 29/7/2005 và ngày 12/10/2005 (BL58), bị đơn thừa nhận”để công nợ kéo dài như thế để đối trừ vào khoản tiền tôi đã xuất bù tôm hao hụt và thiếu mẫu”. Bị đơn phản tố rằng trong quá trình mua bán phía Công ty số 1 giao tôm thiếu và hứa khuyến mãi nhiều đợt mà không thực hiện. Ông Phụng đã thực hiện khuyến mãi và bù tôm thiếu cho người mua với tổng số tiền là 199.612.000 đồng; Công ty số 1 còn giữ 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, một giấy mang tên ông Huỳnh Hải Phụng số X423327, một giấy mang tên ông Huỳnh Hải Phụng và Ngô Ngọc Anh số W309365 cho nên yêu cầu Công ty số 1 bù lại số tiền 199/612/000 đồng và trả lại 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Không chấp nhận yêu cầu tính lãi của nguyên đơn.
Tại bản án sơ thẩm số03/2005/KDTM-ST ngày 16/11/2005, Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau quyết định:
“1/ Buộc ông Huỳnh Hải Phụng thanh toán cho Công ty số 1 số tiền 213.487.000 đồng. Kể từ ngày có đơn thi hành án ông Phụng có nghĩa vụ thanh toán số tiền này, nếu quá hạn thì hàng tháng phải chịu thêm khoản lãi phát sinh theo mức lãi nợ quá hạn của ngân hàng nhà nước trên số tiền và thời gian chậm trả cho đến khi thi hành án xong.
Đồng thời công ty trách nhiệm hữu hạn số 1 có nghĩa vụ hoàn trả cho anh Phụng hai giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, 01 đứng tên ông Huỳnh Hải Phụng số X423327, một giấy mang tên ông Huỳnh Hải Phụng và Ngô Ngọc Anh số W309365.
2/ Bác yêu cầu anh Phụng đòi công ty bồi thường khoản tiền bán tôm thiếu mẫu và khuyến mãi là 199.162.000 đ…”
Ngoài ra, còn có quyết định về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 25/11/2005, bà Ngô Ngọc Anh có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm nêu trên, với nội dung:
- Yêu cầu nguyên đơn đối trừ số nợ mà nguyên đơn còn thiếu lại bị đơn là: 199.162.000 đồng trên tổng số tiền bị đơn thiếu nguyên đơn là 187.307.000 đồng. Đồng thời yêu cầu Công ty số 1 phải trả cho bị đơn hai giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, 01 đứng tên ông Huỳnh Hải Phụng số X423327, một giấy mang tên ông Huỳnh Hải Phụng và Ngô Ngọc Anh số W309365.
- Yêu cầu bên nguyên đơn bồi thường thiệt hại cho bên bị đơn do lỗi đơn phương chấm dứt hợp đồng trước thời hạn dẫn đến bên bị đơn bị thiệt hại như thuê mặt bằng trong 06 tháng = 4.950.000 đồng; Máy móc thiết bị phục vụ cho việc bán tôm như máy fax, bàn ghế = 4.000.000 đồng; Bảng hiệu: 4.900.000 đồng; Mất việc làm cho 02 lao động trong 06 tháng trên doanh thu mua bán tôm = 197.160.000 đồng. Tổng số = 410.000.000 đồng.
Ngày 17/4/2006, Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau ra Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm số03/2006/QĐĐC-PT đối với vụ án nêu trên.
Ngày 06/11/2006, ông Huỳnh Hải Phụng và bà Ngô Thị Ngọc Anh có đơn yêu cầu kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Quyết định đình chỉ nêu trên, với lý do:
Ông Huỳnh Hải Phụng đã được Tòa án triệu tập hai lần, lần thứ nhất ông Phụng và bà Anh đều vắng mặt với lý do đi nuôi bệnh cha mẹ ở Cần Thơ, còn lần thứ hai ông Phụng đi công tác ở Campuchia nên không tham dự phiên tòa, bà Anh là người được ông Phụng ủy quyền tham gia tố tụng đã trực tiếp đến xin hoãn phiên tòa nhưng không được chấp nhận, bà Anh mới vắng mặt chỉ có một lần đến lần thứ hai thì đã đình chỉ phúc thẩm.
Tại Quyết định kháng nghị số04/2008/KN-KT ngày 11/3/2008 đối với Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm số03/2006/QĐĐC-PT ngày 17/4/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã đề nghị Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm hủy Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm số03/2006/QĐĐC-PT ngày 17/4/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau và bản án sơ thẩm số03/2005/KDTM-ST ngày 16/11/2005 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau; giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật, với lý do:
- Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau là không có căn cứ.
- Tại Hợp đồng ngày 07/01/2004 giữa Công ty số 1 và Trung tâm phân phối tỉnh Cà Mau I do ông Huỳnh Hải Phụng làm đại diện; nhưng trong hò sơ không có tài liệu chứng minh ông Phụng là người đại diện của Trung tâm và tư cách pháp lý của Trung tâm này như thế nào, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa làm rõ, nên chưa có căn cứ để xác định hợp đồng này là hợp đồng gì.
- Ông Nguyễn Tấn Mạnh – Tổng Giám đốc Công ty số 1 là người đại diện theo pháp luật đứng tên ở đơn khởi kiện, nhưng người ký tên ở đơn vị này lại là ông Bùi Quang Nhơn, người được ủy quyền; đồng thời đơn khởi kiện của Công ty lại không có dấu của Công ty. Việc này chưa được Tòa án cấp sơ thẩm hướng dẫn đương sự thực hiện đúng quy định của pháp luật nhưng đã thụ lý là chưa đúng pháp luật.
Tại kết luận số06/KL-VKSTC-AKT ngày 18/4/2008, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chấp nhận một phần nội dung kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao (phần hủy quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm số03/2006/QĐĐC-PT ngày 17/4/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau ). Đề nghị Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm hủy quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm số03/2006/QĐĐC-PT ngày 17/4/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau ; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật. Tại phiên tòa xét xử giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao giữ nguyên quan điểm như tại Kết luận của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao nêu trên.
XÉT THẤY
* Về việc triệu tập đương sự:
Lần thứ nhất: Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau triệu tập ông Huỳnh Hải Phụng tham gia phiên tòa phúc thẩm vào lúc 7 giờ 30 phút ngày 13 tháng 3 năm 2006. Người nhận thay là Huỳnh Giao, con ruột của ông Huỳnh Hải Phụng, ở cùng địa chỉ.
Ông Huỳnh Hải Phụng đã không đến tham gia phiên tòa theo giấy triệu tập và không có tài liệu nào thể hiện lý do của sự vắng mặt này.
Lần thứ hai: Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau có giấy triệu tập đương sự số 17 để tham gia phiên tòa phúc thẩm vào lúc 7 giờ 30 phút ngày 17 tháng 4 năm 2006. Người nhận là bà Ngô Ngọc Anh – vợ ông Huỳnh Hải Phụng, nhưng đến hồi 14 giờ 30 phút cùng ngày (ngày 17/4/2006) thì Tòa án mới giao giấy triệu tập cho bà Anh (BL103). Tức là chậm 7 giờ đồng hồ so với thời điểm mở phiên tòa. Do đó mà đương sự không thể có mặt tại phiên tòa.
Như vậy, trong hai lần triệu tập đương sự của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau thì chỉ có một lần triệu tập đương sự là hợp lệ (lần thứ nhất), còn việc triệu tập đương sự lần thứ hai là không hợp lệ.
Do vậy việc Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án là không có căn cứ và không đúng với quy định tại khoản 2 ĐIều 266 BLTTDS “…người kháng cáo đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì bị coi là từ bỏ việc kháng cáo và Tòa án ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án có kháng cáo của người kháng cáo vắng mặt”.
* Về việc xác định tư cách bị đơn:
Tại hợp đồng phân phối số 03/HĐKT ngày 07/01/2004 ghi:
Bên B: Trung tâm phân phối tỉnh Cà Mau I
Người đại diện: Huỳnh Hải Phụng
Chức vụ: Giám đốc
Tại các biên bản họp về việc giải quyết công nợ ngày 8/5/2004 (BL14); ngày 24/5/2004 (BL13), có chữ ký của ông Phụng và dấu đóng của Trung tâm phân phối tôm giống số 1 Anh Phụng tỉnh Cà Mau.
Tòa án cấp sơ thẩm chưa làm rõ tư cách pháp lý của Trung tâm phân phối tỉnh Cà Mau I, chưa làm rõ quan hệ hợp đồng giữa Công ty số 1 và Trung tâm phân phối tỉnh Cà Mau I hay giữa Công ty số 1 và cá nhân ông Huỳnh Hải Phụng mà đã xác định bị đơn là ông Huỳnh Hải Phụng là chưa có cơ sở vững chắc, cho nên yêu cầu hủy cả bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số03/2005/KDTM-ST ngày 16/11/2005; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật như kháng nghị nêu là có căn cứ.
* Về đơn khởi kiện và thụ lý vụ án:
Trong hồ sơ vụ án có hai đơn khởi kiện:
- Đơn khởi kiện ngày 08/4/2005 do ông Nguyễn Tấn Mạnh – Tổng giám đốc người đại diện theo pháp luật của công ty TNHH tôm giống số 1 ký tên, đóng dấu của Công ty. Đơn này là hợp lệ. Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau nhận đơn ngày 22/4/2005; ngày 26/5/2005 Công ty số 1 nộp dự phí án phí, cùng ngày Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau thụ lý vụ án số04/2005/DS-ST và thông báo thụ lý cho bị đơn.
- Đơn khởi kiện ngày 02/6/2005, do ông Bùi Quang Nhơn được ông Nguyễn Tấn Mạnh ủy quyền ký, là đơn gửi đến Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau sau khi vụ án đã được thụ lý theo đơn khởi kiện đề ngày 08/4/2004.
Như vậy, Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau đã thụ lý vụ án theo đơn khởi kiện ngày 08/4/2004, chứ không phải theo đơn khởi kiện ngày 02/6/2004. Việc thụ lý này là đúng pháp luật.
Bởi lẽ trên và căn cứ vào khoản 2 Điều 291; khoản 3 Điều 297 và khoản 3 Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự,
QUYẾT ĐỊNH
Chấp nhận kháng nghị số04/2008/KN-KT ngày 11/3/2008 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Hủy Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm số03/2006/QĐĐC-PT ngày 17/4/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau và bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số03/2005/KDTM-ST ngày 16/11/2005 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau; giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
CÁC THẨM PHÁN
Hoàng Thị Bắc Nguyễn Thị Hoàng Bạch Yến
(Đã ký) (Đã ký)
THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Bùi Thị Hải
(Đã ký)
Cập nhật bởi phamthanhhuu ngày 25/05/2013 10:42:28 SA