Số hiệu
|
02/2007/KDTM-GĐT
|
Tiêu đề
|
Quyết định giám đốc thẩm số02/2007/KDTM-GĐT ngày 06-03-2007 về vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa
|
Ngày ban hành
|
06/03/2007
|
Cấp xét xử
|
Giám đốc thẩm
|
Lĩnh vực
|
Kinh tế
|
Quyết định giám đốc thẩm số02/2007/KDTM-GĐT ngày 06-03-2007 về vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Ngày 06 tháng 3 năm 2007, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa giám đốc xét xử vụ án kinh doanh thương mại tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa giữa:
Nguyên đơn: Công ty cổ phần xây dựng Minh sáng; có trụ sở tại xóm 8, xã Nghĩa Thuận, huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An, do ông Lê Nguyên Chất- giám đốc Công ty, làm điện diện.
Bị đơn: Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng Thành Phát; có trụ sở tại số 16 hẻm 71/14/3 đường Hoàng Văn Thái, phường Khương Trung, quận Thanh Xuân, Hà Nội do ông Nguyễn Quốc Tuấn - giám đốc Công ty, làm đại diện.
NHẬN THẤY:
Theo đơn khởi kiện và trình bày của nguyên đơn: ngày 05-7-2003 Công ty trách nhiệm hữu hạn Xây dựng Thành Phát ( bên A) ( sau đây gọi tắt là Công ty Thành Phát) và Công ty trách nhiệm hữu hạn Minh Sáng ( bên B) nay là Công ty cổ phần xây dựng Minh Sáng ( sau đây gọi tắt là Công ty Minh Sáng) đã cùng nhau ký hợp đồng kinh tế không số nội dung chính như sau: Bên B bán cho bên A các loại vật liệu đá 4x6, đá hộc giao tại chân công trình; đá 4x6 giá 63.000đ/m3 tiến độ 150m3/ ngày; đá hộc 40.000 đ/m3 tiến độ theo yêu cầu của bên A. Khối lượng tổi thiểu cho đầu xe ÌE là 4,7m3/xe; khối lượng chuẩn bị để thanh toán cho tất cả các chuyến của một xe được tính bằng khối lượng thấp nhất mà bên A kiểm tra xác định ở thời điểm bất kỳ không báo trước.
- Nếu như mưa làm ảnh hưởng đến đường xá, bên B có quyền ngừng cung cấp vật liệu nhưng không quá 5 ngày.
- Khi bên B cấp đủ 1000m3, hai bên làm thủ tục đối chiếu khối lượng, bên A sẽ thanh toán trước cho bên B 70% giá trị khối lượng.
- Khi kết thúc công trình hai bên đối chiếu để thanh toán hết số tiền còn lại.
- Trường hợp bên B không cung cấp đủ khối lượng thì:
Nếu đạt 100-200 m3/ ngày, giá 53.000 đ/m3
Nếu đạt 50-100 m3/ngày, giá 30.000 đ/m3
Nếu đạt 5-50 m3/ngày, thì không được thanh toán.
Sau đó hai bên ký thêm phụ lục hợp đồng kinh tế không số có nội dung: bên Công ty Minh Sáng bán cho Công ty Thành Phát các loại vật liêu: đá 0,5x1, đá 1x2, đá 2x4 và vận chuyển đất, cát tại công trình tỉnh lộ 545 ( km6 - km13)
Sau khi hợp đồng và phụ lục trên được thực hiện xong; đến phần thanh toán hai bên ký hợp đồng kinh tế không số, không ngày, tháng , năm có nội chính như sau; Công ty Minh Sáng và Công ty Thành Phát thống nhất để cho Công ty Minh Sáng tạm giữ 1 máy đào Kobelcosk - 100w, 1 máy san MitsumisiG3H, để đảm bảo cho việc thanh toán hợp đồng. Trong thời gian giữ máy thì Công ty Minh Sáng phải thanh toán tiền “ thuê máy”
25.000.000đ/máy/tháng cho Công ty Thành Phát . Hợp đồng không quy định thời gian hợp đồng có hiệu lực từ khi nào; nhưng thời điểm giao máy là ngày 18-4-2004….
Quá trình thực hiện hợp đồng:
Trước khi ký kết hợp đồng, Công ty Thành Phát và Công ty Minh Sáng thống nhất làm thử hợp đồng. Công ty Minh Sáng đã bán cho Công ty Thành Phát 864,64m3 đá các loại thành tiền là 53.209.780 đồng.
Còn về hợp đồng thì Công ty Minh Sáng căn cứ vào 11 lần chốt khối lượng vật liệu đá để tính khối lượng và tính giá trị số lượng đã giao.
Tổng cộng số lượng đã giao trước và sau khi ký hợp đồng là 864, 640 m3 + 17.227,607m3 = 18.092,247m3
Tiền vận chuyển đất, cát : 6.394.000 đồng.
Tiền mà Công ty Minh Sáng thuê máy cho Công ty Thành Phát 49.906.000 đồng.
Tổng số tiền vật liệu đá, vận chuyển đất, cát và thuê máy là: 1.227.088.000 đồng.
Công ty Minh Sáng đã ứng trước : 826.088.000 đồng
Sau khi trừ tiền tạm ứng thì Công ty Thành Phát còn nợ là : 1.227.088.000 đồng - 826.088.000 đồng = 401.000.000 đồng.
Vì vậy, Công ty Minh Sáng yêu cầu Công ty Thành Phát phải thanh toán toàn bộ gồm cả tiền gốc và tiền lãi là 510.723.487 đồng.
Theo trình bày của Công ty Thành Phát thì phải căn cứ vào thỏa thuận tại điều 3, điều 4 của Hợp đồng kinh tế để tính khối lượng của từng xe chở đá và tính trị giá tiền vật liệu theo tiến độ mà Công ty Minh Sáng đã cung cấp.
Cụ thể khối lượng số đá mà Công ty Thành Phát đã mua của Công ty Minh Sáng là : 15.073,94m3, bao gồm:
* Đá 4x6: có 13.359,94 m3 , trong đó có:
- Tiến độ từ 0-50 m3 , có 304,3 m3 , không được thanh toán.
- Tiến độ từ 50-100 m3 , có 2.598,4 m3 x 30.000 đ = 77.925.000 đồng.
- Tiến độ từ 100-120 m3 , có 1.309,8m3 x 53.000 đ = 69.419.400 đồng
- Tiến độ từ 120-150 m3 , có 9.147,1 m3 x 63.000 đ = 576.267.300 đồng
Cộng: 723.638.700 đồng
* Đá 2x4: có 268,1m3 x 80.000 đ = 21.448.000 đồng
* Đá 1x2: có 777,52m3 x 90.000đ = 68.853.600 đồng
* Đá 0,5x1: có 861,20m3 x 95.000 đ = 64.714.000 đồng
Cộng: 1.726,82m3 = 151.015.000 đồng
Đá hộc : 841, 5m3 x 40.000 đ = 33.666.000 đồng
Tiền vận chuyển đất, cát: 6.394.000 đồng
Tiền Công ty Minh Sáng thuê máy cho Công ty Thành Phát : 49.906.000 đồng
Căn cứ vào Điều 2 Hợp đồng kinh tế thì số tiền lãng phí máy và nhân công là: 106.090.000 đồng; bởi vì có 88 ngày Công ty Minh Sáng không cung cấp đủ vật liệu, tự ý nghỉ không chuyển đá và nghỉ vì trời mưa. Nếu trời mưa thì chỉ được trừ không quá 5 ngày; Trong trường hợp Công ty Thành Phát yêu cầu ngừng cung cấp vật liệu hoặc cung cấp vật liệu ít hơn 150 m3 /ngày thì phải có xác nhận của cán bộ vật tư, kỹ thuật và chỉ huy công trường mới có giá trị. Trong các tháng 7,11 năm 2003 mỗi ngày trên công trường có 2 máy lu, 1 máy san làm việc. Các tháng 8,9,10 năm 2003 mỗi ngày làm việc có 3 máy lu, 2 máy san; còn nhân công thì căn cứ vào số người trên công trường từng ngày có mặt.
Căn cứ vào Điều 4 hợp đồng kinh tế thì tiền lãi suất đến ngày 06-9-2005 Công ty Thành Phát phải trả là: 4.632.756 đồng và số tiền đá Công ty Thành Phát phải trả là:
Tổng số tiền đá hộc, 4x6: 757.298.700đ x 70% = 530.109.000 đồng
Tổng số tiền đá 2x4, 1x2, 0,5 x1 là: 162.352.600 đồng.
Công ty Minh Sáng đã tạm ứng trước : 826.088.000 đồng.
Do đó, Công ty Thành Phát đã tạm ứng cho Công ty Minh Sáng vượt quá số tiền theo cam kết hợp đồng là 83.721.391 đồng.
Căn cứ phụ lục Hợp đồng kinh tế đã ký; Ngày 18-4-2004 hai bên làm thủ tục giao máy thì mỗi tháng Công ty Minh Sáng phải thanh toán tiền giữ máy 50.000.000đ/tháng cho Công ty Thành Phát. Do bị Công ty Minh Sáng giữ 2 máy trong 16 tháng nên 2 máy không làm việc, không có thu nhập, vì vậy thiệt hại cho Công ty Thành Phát là:
16 tháng x 50.000.000 đồng = 800.000.000 đồng
Tổng số tiền vật liệu đá, tiền lãi suất, Công ty Thành Phát phải thanh toán cho Công ty Minh Sáng : 969.737.000 đồng + 4.632.756 đồng = 974.369.756 đồng:
Sau khi trừ tạm ứng còn:
974.369.756 đồng - 826.088.000 đồng = 148.281.756 đồng.
Số tiền mà Công ty Thành Phát được Công ty Minh Sáng thanh toán: Tiền lãng phí máy + nhân công + tiền giữ máy là:
106.090.522 đồng + 800.000.000 đồng = 906.090.522 đồng.
Sau khi đối trừ, thì Công ty Minh Sáng còn phải thanh toán cho Công ty Thành Phát 758.931.000 đồng.
Do xảy ra tranh chấp hai bên không thanh lý được hợp đồng. Ngày 06-4-2005 Công ty Minh Sáng có đơn khởi kiện đối với Công ty Thành Phát tới Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An đề nghị can thiệp giải quyết.
Tại bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 02/2005/KTST ngày 07-9-2005, Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An đã quyết định:
Chấp nhận đơn khởi kiện 06-4-2005 của Công ty cổ phần xây dựng Minh Sáng đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn Thành Phát về hợp đồng kinh tế không số ngày 05-7-2003 và phụ lục hợp đồng kinh tế mua bán vật liệu đá tại công trình tỉnh lộ 545, huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An.
Buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn Thành Phát phải thanh toán cho Công ty cổ phần xây dựng Minh Sáng 428.168.047 đồng.
Không chấp nhận yêu cầu phải tố của Công ty trách nhiệm hữu hạn Thành Phát đối với Công ty cổ phần xây dựng Minh Sáng về phụ lục hợp đồng kinh tế không số, không ngày, tháng , năm về khoản tiền Công ty cổ phần xây dựng Minh Sáng giữ hai máy ( 1 máy đào Kobel Cosk100w, 1 máy san Mitsumisi MG3H).
- Công ty cổ phần xây dựng Minh Sáng phải trả lại hai máy ( 1 máy đào Kobel Cosk 100w, 1 máy san Misumisi MG3H) cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Thành Phát. Đặc điểm, tình trạng máy như biên bản bàn giao ngày 18-4-2004 giữa Công ty trách nhiệm hữu hạn Thành Phát và Công ty cổ phần xây dựng Minh Sáng .
Án phí sơ thẩm: Công ty trách nhiệm hữu hạn Thành Phát phải chịu 15.849.000 đồng.
Ngày 10-9-2005, Công ty trách nhiệm hữu hạn Thành Phát có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm nêu trên.
Ngày 20-9-2005, Công ty cổ phần xây dựng Minh Sáng có đơn kháng cáo yêu cầu được tính theo đơn giá 63.000 đồng/m3 đối với toàn bộ lượng đá 4x6.
Tại bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm, Công ty trách nhiệm hữu hàn Thành phát có đơn khiếu nại đề nghị xem xét lại vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm.
Tại Kháng nghị số05/2006/KT-TK ngày 08-11-2006 với bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số45/2006/KT-PT ngày 24-02-2006 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 45/206/KTPT ngày 24-02-2006 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội, giao hồ sơ vụ án cho Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm lại vụ án theo đúng quy định của pháp luật.
Tại kết luận số03/KL-AKDTM ngày 30 tháng 01 năm 2007 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kết luận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao là cần thiết và đề nghị Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao:
Hủy bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm về vụ án này; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm lại.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhận định: về tố tụng Tòa án cấp phúc thẩm xét xử vắng mặt bị đơn có kháng cáo là vi phạm tố tụng nghiệm trọng; về nội dung Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không căn cứ vào hợp đồng để tính toán số lượng đá chính xác làm cơ sở thanh toán là có sai sót; việc các bên ký phụ lục hợp đồng thỏa thuận giữ hai máy để làm tin nhằm bảo đảm cho việc thanh toán là không trái pháp luật, nên không bị vô hiệu. Đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy các bản án sơ thẩm và phúc thẩm về vụ án này, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tối cao tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
XÉT THẤY:
1. Về tố tụng:
Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 23-01-2006 có mặt đại diện của Công ty trách nhiệm hữu hạn Thành Phát là ông Vũ Đình Thiết, nhưng khi kiểm tra thấy do giấy ủy quyền của giám đốc Công ty trách nhiệm hữu hạn Thành Phát cho ông Thiết tham sự phiên tòa đã hết hạn từ ngày 15-9-2005. Như vậy, điện diễn của Công ty trách nhiệm hữu hạn Thành Phát đã có mặt tại phiên tòa, nhưng do giấy ủy quyền hết hạn nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận và đã quyết định hõa phiên tòa.
Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 24-02-2006 văng mặt đại diện Công ty trách nhiệm hữu hạn Thành Phát thì phải coi đây là vắng mặt của bị bị đơn lần thứ nhất. Nhưng Tòa án cấp phúc thẩm lại nhận định bị đơn vắng mặt lần thứ 2 và tiến hành xét xử phúc thẩm vắng mặt bị đơn là không đúng.
Mặt khác, tại khoản 2 Điều 266 Bộ luật tố tụng dân sư quy định “ Người kháng cáo vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đánh thì phải hoãn phiên tòa. Người kháng cáo được triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 mà vẫn vắng mặt thì bị coi là từ bỏ việc kháng cáo và Tòa án ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án có kháng cáo của người kháng cáo vắng mặt”. Trong trường hợp này Tòa án cấp phúc thẩm xác định người kháng cáo vắng mặt lần 2 nhưng lại xem xét lại toàn bộ vụ án theo đơn kháng của đương sự có kháng cáo bản án sơ thẩm nhưng vắng mặt lần 2 và đã quyết định bác kháng cáo của Công ty trách nhiệm hữu hạn Thành Phát là vi phạm nghiệm trọng thủ tục tố tụng.
2. Về nội dung:
Tại Điều 3 của hợp đồng các bên đã thỏa thuận không lượng chuẩn để thanh toán cho tất cả các chuyến của một loại xe được tính bằng khối lượng thấp nhất mà bên A kiểm tra xác định ở thời điểm bất kỳ không báo trước. Riêng đối với loại đá 4x6 nếu giao dưới 50 m3 /ngày sẽ không được thanh toán. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, hai bên đã lập bảng tổng hợp giao nhận đá tại công trường ( trong đó nhiều ngày không đủ 50 m3 ; có nhiều xe không ghi khối lượng trong mỗi ngày) nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa đối trừ ngay những ngày không giao đủ 50m3; những xe không ghi khối lượng thì tính theo khối lượng của xe chở thấp nhất để xác định chính xác các loại vật liệu bên B giao cho bên A.
Tại Điều 2 và Điều 4 của hợp đồng các bên thỏa thuận đơn giá được áp dụng theo tiến độ cung cấp vật liệu từng ngày đối với loại đá 4x6, cụ thể là:
Nếu giao được từ 120m3 trở lên/ngày : 63.000đ/m3
Nếu từ 100-120 m3 /ngày: 53.000đ/m3
Nếu từ 50-100 m3 /ngày : 30.000 đ/m3
Nếu dưới 50 m3 /ngày: không được thanh toán.
Do chưa xác định tính chính xác số lượng các bên đã giao nhận cho nhau theo thỏa thuận tại hợp đồng, nên việc áp giá cho số lượng thực hiện trong từng ngày chưa chính xác, chưa phù hợp với thực tế thỏa thuận.
Tại Điều 2 hợp đồng quy định bên B phải chịu trách nhiệm tổn thất về máy móc và nhân lực nếu bên A trong trường hợp không cung cấp đầy đủ khối lượng vật liệu theo hợp đồng.
Tại Điều 3 của hợp đồng quy định nếu trời mưa làm ảnh hưởng đến đường sá, bên B có quyền ngừng cung cấp vật liệu nhưng không quá 5 ngày.
Số ngày không cung cấp đầy đủ khối lượng và nghỉ vì trời mưa là 88 ngày, theo thỏa thuận tại Điều 3 hợp đồng thì hai bên phải làm biên bản có xác nhận của cán bộ vật tư, cán bộ kỹ thuật và chỉ huy trưởng công trường mới có giá trị; Trong vụ án này, phía bị đơn yêu cầu bồi thường 41 ngày , nguyên đơn chấp nhận 32 ngày, Tòa án cấp sơ thẩm chưa xác định được những ngày nào mưa ảnh hưởng đến đường xá, phải ngưng cung cấp vật liệu, ngày nào mưa mà không ảnh hưởng đến cung cấp vật liệu để xác định số ngày phải bồi thường là 41 hay 32 ngày, nhưng đã chấp nhận đề xuất của bị đơn là chưa khách quan.
Hai bên ký phụ lục hợp đồng với thỏa thuận bên A giao cho bên B giữ hai máy thi công, bên B chấp nhận trả cho bên A 25.000.000đ/máy/tháng với thời hạn là 30 ngày. Đây là sự tự thỏa thuận của các bên để bảo đảm cho việc thanh toán không trái pháp luât. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm bác bỏ thỏa thuận này vì vô hiệu hóa là chưa đủ căn cứ, gây ảnh hưởng tới quyền lợi của bên A. ( nếu không bị bên B giữ máy, thì bên A vẫn khai thác , sử dụng máy mang lại lợi ích cho đơn vị mình).
Bởi các lẽ trên và căn cứ vào khoản 3 Điều 291; khoản 3 Điều 297 và khoản 1, khoản 2 Điều 299 Bộ luậ tố tụng dân sự.
QUYẾT ĐỊNH:
1. Hủy bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 45/2006/KTPT ngày 24-02-2006 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội và bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 02/2005/KTST ngày 07-9-2005 của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An đã xét xử vụ án kinh doanh thương mại tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa giữa nguyên đơn là Công ty cổ phần xây dựng Minh Sáng và Công ty trách nhiệm hữu hạn Thành Phát .
2. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An để giải quyết xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
Lý do bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm bị hủy:
Tòa án cấp phúc thẩm xác định không đúng pháp luật trường hợp xét xử vắng mặt người kháng cáo dẫn đến vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Các Tòa án bác bỏ thỏa huận hợp pháp của các đương sự là vi phạm quyền lợi của họ.