Sau khi gây tai nạn giao thông cho bị hại, bị cáo dừng xe xuống kiểm tra thấy bị hại nằm dưới gầm xe ô tô, không xác định bị hại còn sống hay đã chết, bị cáo tiếp tục điều khiển xe chèn lên người bị hại; hậu quả là bị hại chết.
Bản án phúc thẩm 280/2019/HSPT ngày 16/05/2019 được xem là Án lệ làm cơ sở để xét xử những tình huống tương tự; chi tiết vụ án như sau:
“Phan Đình Q điều khiển xe tải đi trên đường Quốc lộ 1A, đi cùng chiều có xe máy điện do em Hoàng Đức P điều khiển đang đi trên phần đường dành cho người đi bộ. Khi đang di chuyển thì bất ngờ tài xế rẽ phải; cùng lúc này em P cũng vừa đi đến; sau đó va chạm gây ra tai nạn và làm xe máy điện của em P bị cuốn vào gầm xe ô tô.
Sau khi xảy ra va chạm thì Q liền dừng xe lại để kiểm tra thì nhìn thấy P nằm dưới gầm xe. Sau khi thấy em P bị tai nạn nằm ở tư thế bị chèn ở phía trước của bánh sau xe ô tô; Q đứng quan sát rồi cho xe chạy lên đè qua đầu nạn nhân, làm cho nạn nhân bị vỡ sọ não và tử vong.
Tòa án cấp phúc thẩm tuyên bị cáo phạm tội Giết người.”
Theo nội dung bản án, sau khi Tòa án cấp sơ thẩm tuyên án về tội “Giết người”, bị cáo kháng cáo kêu oan vì cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm xử không đúng tội danh vì bị cáo chỉ phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.
Tuy nhiên, việc Tòa án kết án bị cáo tội danh “Giết người” là hoàn toàn có căn cứ pháp luật. Có thể thấy, việc bị cáo xuống xe kiểm tra nạn nhân sau khi gây tai nạn nhưng không biết nạn nhân còn sống hay đã chết, không tiến hành cấp cứu cho nạn nhân; mà còn cố ý chèn xe làm nạn nhân biến dạng và tử vong sau đó đã thỏa mãn những yếu tố cấu thành nên tội “Giết người”, cụ thể:
- Về hành vi: Bị cáo đã dùng mọi thủ đoạn nhằm tước đoạt mạng sống của nạn nhân (chèn xe lên người nạn nhân dù biết trước được hậu quả)
- Về mặt hậu quả: Tước đoạt mạng sống của nạn nhân và việc nạn nhân chết không nằm ngoài mục đích của bị cáo
- Về lỗi: Trường hợp này là lỗi cố ý
- Về mặt khách thể của tội phạm: Bị cáo xâm phạm đến mối quan hệ liên quan đến tính mạng của con người được pháp luật hình sự bảo vệ; quyền được sống của con người được pháp luật bảo vệ.
- Về mặt chủ thể: Bị cáo là người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự đầy đủ.
Bộ luật hình sự 2015 quy định về tội Giết người như sau:
Điều 123. Tội giết người
1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Giết 02 người trở lên;
b) Giết người dưới 16 tuổi;
c) Giết phụ nữ mà biết là có thai;
d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;
đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;
e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác;
h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;
i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ;
k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp;
l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người;
m) Thuê giết người hoặc giết người thuê;
n) Có tính chất côn đồ;
o) Có tổ chức;
p) Tái phạm nguy hiểm;
q) Vì động cơ đê hèn.
2. Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.
3. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm.