Điều 2 Nghị định số 83/2014/NĐ-CP quy định:
Điều 2. Đối tượng áp dụng
1. Nghị định này áp dụng đối với thương nhân Việt Nam theo quy định của Luật Thương mại.
2. Nghị định này không áp dụng đối với thương nhân nhập khẩu, sản xuất và pha chế các loại xăng dầu chuyên dùng cho nhu cầu riêng của mình, không lưu thông trên thị trường theo đăng ký với Bộ Công Thương.
Quy định tại khoản 1 Điều 2 nêu trên có nghĩa là thương nhân Việt Nam kinh doanh xăng dầu thì chịu sự điều chỉnh của Nghị định số 83/2014/NĐ-CP, chứ không đồng nghĩa với việc thương nhân nước ngoài không được phép kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam, hay nói như bài viết trên là nhà đầu tư nước ngoài bị cấm kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam. Bởi tại khoản 1 Điều 4 của nghị định này còn quy định:
Điều 4. Áp dụng điều ước quốc tế và pháp luật có liên quan
1. Thương nhân nước ngoài kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam theo điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, phải tuân thủ các quy định tại Nghị định này; trường hợp điều ước quốc tế quy định khác với quy định tại Nghị định này thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.
Như vậy thì nói nhà đầu tư nước ngoài bị cám kinh doanh xăng dầu là không chính xác.
P/S: ngoài những ngành nghề đã liệt kê ở trên (trừ kinh doanh xăng dầu) thì nhà đầu tư nước ngoài còn không được là chủ cửa hàng mua bán di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia; được quy định tại Điều 25 Nghị định số 98/2010/NĐ-CP.
Hãy làm tất cả những gì trong phạm vi cho phép và khả năng có thể!