- Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 71 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định trách nhiệm của Chủ tịch Hội đồng thành viên, Giám đốc, Tổng giám đốc, người đại diện theo pháp luật, Kiểm soát viên và người quản lý khác:
“b) Trung thành với lợi ích của công ty; không sử dụng thông tin, bí quyết, cơ hội kinh doanh của công ty, không lạm dụng địa vị, chức vụ và sử dụng tài sản của công ty để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác;”
Theo thông tin bạn đưa ra: bạn của bạn (tạm gọi là A) có thể rút hết tiền công ty mà bạn không hay biết thì chắc là người đại diện theo pháp luật (hoặc ủy quyền) của công ty, nên có thể ký các chứng từ rút tiền.
Theo đó, A đã tự ý rút tiền công ty vào mục đích cá nhân (không phục vụ lợi ích của công ty), nên đây là hành vi vi phạm nghĩa vụ trong công việc, dựa vào sự tín nhiệm, tin tưởng của công ty mà thực hiện hành vi vi phạm trên.
Như vậy, A có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định pháp luật hình tại khoản 35 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 về “Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.
Tốt nhất trong trường hợp này, bạn và A nên thỏa thuận về việc hoàn trả lại số tiền trên trong thời gian hợp lý. Nếu không thỏa thuận được thì công ty có quyền tố giác A với cơ quan công an để truy cứu trách nhiệm hình sự.