Nghị quyết hướng dẫn Bộ luật tố tụng dân sự 2015 về đơn khởi kiện

Chủ đề   RSS   
  • #432467 02/08/2016

    trang_u
    Top 25
    Female
    Đại học

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:18/11/2015
    Tổng số bài viết (2972)
    Số điểm: 44888
    Cảm ơn: 1413
    Được cảm ơn 1721 lần


    Nghị quyết hướng dẫn Bộ luật tố tụng dân sự 2015 về đơn khởi kiện

    >>> Hướng dẫn cách gửi đơn khởi kiện qua mạng

    Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao vừa công bố Dự thảo Nghị quyết hướng dẫn Khoản 1, 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 về trả lại đơn khởi kiện và hậu quả của việc trả lại đơn khởi kiện.

    Theo đó, Dự thảo Nghị quyết có 1 số nội dung nổi bật như sau :

    Căn cứ trả lại đơn khởi kiện

    Các trường hợp trả lại đơn khởi kiện 

    (Khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự 2015)

    Nội dung hướng dẫn

    a) Người khởi kiện không có quyền khởi kiện theo quy định tại Điều 186 và Điều 187 của Bộ luật này hoặc không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự;

    1. Người khởi kiện không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự quy định tại điểm a khoản 1 Điều 192 BLTTDS là người không có khả năng tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia tố tụng dân sự theo quy định tại Điều 69 của BLTTDS.

    b) Chưa có đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật.

    Chưa có đủ điều kiện khởi kiện là trường hợp pháp luật có quy định về các điều kiện khởi kiện nhưng người khởi kiện đã khởi kiện đến Tòa án khi còn thiếu một trong các điều kiện đó;

    2. Khi xác định điều kiện khởi kiện vụ án dân sự liên quan đến quyền sử dụng đất thì thực hiện như sau:

    a) Đối với tranh chấp ai là người có quyền sử dụng đất mà chưa tiến hành hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp theo quy định tại Điều 202 của Luật Đất đai năm 2013 thì được xác định là chưa có đủ điều kiện khởi kiện quy định tại điểm b khoản 1 Điều 192 BLTTDS.

    b) Đối với tranh chấp khác liên quan đến quyền sử dụng đất như: tranh chấp về giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất, tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất, chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất,… thì thủ tục hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp không phải là điều kiện khởi kiện vụ án.

    c) Sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp vụ án mà Tòa án bác đơn yêu cầu ly hôn, yêu cầu thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại, yêu cầu thay đổi người quản lý tài sản, thay đổi người quản lý di sản, thay đổi người giám hộ hoặc vụ án đòi tài sản, đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà, đòi quyền sử dụng đất cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu và theo quy định của pháp luật được quyền khởi kiện lại;

     

    d) Hết thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 195 của Bộ luật này mà người khởi kiện không nộp biên lai thu tiền tạm ứng án phí cho Tòa án, trừ trường hợp người khởi kiện được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí hoặc có trở ngại khách quan, sự kiện bất khả kháng;

     

    đ) Vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án;

    3. Vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án là trường hợp theo quy định của pháp luật vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan, tổ chức khác.

    e) Người khởi kiện không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo yêu cầu của Thẩm phán quy định tại khoản 2 Điều 193 của Bộ luật này.

    Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng họ không có nơi cư trú ổn định, thường xuyên thay đổi nơi cư trú, trụ sở mà không thông báo địa chỉ mới cho cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về cư trú làm cho người khởi kiện không biết được nhằm mục đích che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện thì Thẩm phán không trả lại đơn khởi kiện mà xác định người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cố tình giấu địa chỉ và tiến hành thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung.

    Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện không ghi đầy đủ, cụ thể hoặc ghi không đúng tên, địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mà không sửa chữa, bổ sung theo yêu cầu của Thẩm phán thì Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện;

    4. “Địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan” quy định tại điểm e khoản 1 Điều 192 BLTTDS được xác định như sau:

    a) Nếu người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là công dân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vẫn còn quốc tịch Việt Nam trở về Việt Nam sinh sống thì nơi cư trú của họ là địa chỉ chỗ ở hợp pháp mà người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thường trú, tạm trú hoặc đang sinh sống theo quy định của Luật cư trú;

    b) Nếu người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là người nước ngoài đang cư trú tại Việt Nam thì nơi cư trú của họ được xác định theo quy định của Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam;

    c) Nếu người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là người nước ngoài, người Việt Nam đang cư trú ở nước ngoài thì nơi cư trú của họ được xác định căn cứ vào tài liệu chứng cứ do nguyên đơn cung cấp hoặc theo quy định của pháp luật nước, vùng lãnh thổ nơi họ đang cư trú;

    d) Nếu người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cơ quan, tổ chức có quốc tịch Việt Nam thì địa chỉ của cơ quan, tổ chức được xác định là nơi cơ quan, tổ chức đó có trụ sở chính theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc theo quy định của pháp luật;

    Trường hợp cơ quan, tổ chức có quốc tịch nước ngoài thì địa chỉ của cơ quan, tổ chức được xác định căn cứ vào tài liệu chứng cứ do nguyên đơn cung cấp hoặc theo pháp luật nơi cơ quan, tổ chức đó có quốc tịch.  

    5. Trường hợp người khởi kiện đã ghi đầy đủ,cụ thể địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo đúng quy định tại điểm đ, e khoản 4 Điều 189 BLTTDS thì Tòa án phải thụ lý vụ án.

    6. Trường hợp người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng sau khi thụ lý vụ án Tòa án không tống đạt được thông báo về việc thụ lý vụ án do bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có mặt tại địa chỉ mà nguyên đơn cung cấp thì Tòa án yêu cầu nguyên đơn cung cấp địa chỉ đúng của họ. Trường hợp nguyên đơn đã áp dụng các biện pháp cần thiết nhưng vẫn không cung cấp được đúng địa chỉ của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì có quyền yêu cầu Tòa án thu thập, xác minh địa chỉ đúng của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định của pháp luật. Tòa án đã tiến hành thu thập, xác minh theo yêu cầu của nguyên đơn nhưng vẫn không xác định được đúng địa chỉ của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án áp dụng quy định tại điểm g khoản 1 Điều 217 BLLTTDS để đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, trừ những trường hợp sau đây:

    a) Trường hợp người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng họ không có nơi cư trú ổn định, thường xuyên thay đổi nơi cư trú mà sau 24 tháng kể từ ngày chuyển đi khỏi nơi đăng ký hộ khẩu thường trú mà không làm thủ tục thay đổi nơi đăng ký thường trú làm cho người khởi kiện không biết được thì được coi là “che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện”;

    b) Trường hợp người khởi kiện đã cung cấp địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo giao dịch, hợp đồng các bên đã giao kết thì được coi là “đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú” theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 192 BLLTTDS;

    c) Trường hợp nguyên đơn đã cung cấp tài liệu, chứng cứ để xác định địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở cuối cùng của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định của pháp luật và hướng dẫn tại khoản 4 Điều này.

    g) Người khởi kiện rút đơn khởi kiện.

     

    Lưu ý : Khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự không quy định căn cứ trả lại đơn khởi kiện vì lý do thời hiệu khởi kiện đã hết, vì vậy : Tòa án không được lấy lý do thời hiệu khởi kiện đã hết để trả lại đơn khởi kiện.

    Trường hợp trước đây, Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện vì lý do thời hiệu khởi kiện đã hết mà đương sự có yêu cầu khởi kiện lại, thì Tòa án thụ lý vụ việc và đương sự phải nộp tiền tạm ứng án phí nếu không thuộc diện được miễn án phí theo quy định của pháp luật.

    Hướng dẫn hậu quả của việc trả lại đơn khởi kiện

    Các trường hợp đựơc nộp lại đơn khởi kiện

    (Khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự 2015)

    Nội dung hướng dẫn

    a) Người khởi kiện đã có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự;

     

    b) Yêu cầu ly hôn, yêu cầu thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại, yêu cầu thay đổi người quản lý tài sản, thay đổi người quản lý di sản, thay đổi người giám hộ hoặc vụ án đòi tài sản, đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà, đòi quyền sử dụng đất cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà trước đó Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu mà theo quy định của pháp luật được quyền khởi kiện lại;

     

    c) Đã có đủ điều kiện khởi kiện;

     

    d) Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.

    2."Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật" quy định tại điểm d khoản 3 Điều 192 của Bộ luật tố tụng dân sự là các trường hợp trong Bộ luật tố tụng dân sự chưa quy định nhưng đã được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật khác hoặc sau khi Bộ luật tố tụng dân sự có hiệu lực thi hành mới được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành sau đó hoặc trong các điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

    Ví dụ 1: Trường hợp Tòa án tiến hành hòa giải đoàn tụ thành theo quy định tại Điều 54 của Luật Hôn nhân và Gia đình và đã ra quyết định công nhận sự thỏa thuận về việc hòa giải đoàn tụ thành giữa các đương sự. Trong thời gian đoàn tụ, các đương sự lại phát sinh mâu thuẫn và có đơn xin ly hôn yêu cầu Tòa án giải quyết, thì Tòa án căn cứ vào Điều 51 của Luật Hôn nhân và Gia đình để thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung.

    Ví dụ 2: Trường hợp Tòa án đã bác đơn xin ly hôn của người chồng xin ly hôn vợ đang có thai hoặc đang nuôi con dưới mười hai tháng tuổi, thì Tòa án chỉ thụ lý lại vụ án xin ly hôn của người chồng khi đã đáp ứng đủ điều kiện khởi kiện quy định tại khoản 3 Điều 51 của Luật Hôn nhân và Gia đình.

    Đối với những vụ án dân sự mà trước ngày 01-01-2017, Tòa án đã đình chỉ giải quyết vụ án vì lý do "thời hiệu khởi kiện đã hết" nhưng theo quy định tại khoản 1 Điều 623, điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015 thì thời hiệu khởi kiện vụ án đó vẫn còn. Trường hợp này người khởi kiện có quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015 và điểm d khoản 3 Điều 192 của Bộ luật tố tụng dân sự.

    Đối với những vụ án dân sự yêu cầu chia tài sản chung là di sản thừa kế đã hết thời hiệu mà trước ngày 01-01-2017 Tòa án đã đình chỉ giải quyết vụ án vì lý do chưa đủ điều kiện khởi kiện nay người khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế thì Tòa án xem xét, thụ lý theo thủ tục chung.

    Xem chi tiết tại Dự thảo Nghị quyết hướng dẫn thi hành Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

     
    53240 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận
  • #453165   08/05/2017

    nguyenanh1292
    nguyenanh1292
    Top 25
    Female
    Dân Luật bậc 1

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:23/04/2014
    Tổng số bài viết (3079)
    Số điểm: 68071
    Cảm ơn: 576
    Được cảm ơn 4262 lần


    Gửi các bạn nội dung chính thức tại Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP hướng dẫn một số quy định tại Khoản 1 và Khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án

     

     
    Báo quản trị |  
    1 thành viên cảm ơn nguyenanh1292 vì bài viết hữu ích
    trang_u (08/05/2017)
  • #453224   09/05/2017

    Mình có câu hỏi, mong mọi người chỉ giáo

    "Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng họ không có nơi cư trú ổn định, thường xuyên thay đổi nơi cư trú, trụ sở mà không thông báo địa chỉ mới cho cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về cư trú làm cho người khởi kiện không biết được nhằm mục đích che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện thì Thẩm phán không trả lại đơn khởi kiện mà xác định người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cố tình giấu địa chỉ và tiến hành thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung." trích điểm 3 khoản 1 điều 192.

    Xin hỏi giải quyết theo thủ tục chung là như thế nào ah ?

    Xin cảm ơn

     
    Báo quản trị |