Ngày truyền thống của nghề Luật sư Việt Nam 10/10

Chủ đề   RSS   
  • #136944 04/10/2011

    LUATSUNGUYEN
    Top 25
    Male
    Lớp 10

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:20/01/2011
    Tổng số bài viết (2124)
    Số điểm: 14426
    Cảm ơn: 0
    Được cảm ơn 742 lần


    Ngày truyền thống của nghề Luật sư Việt Nam 10/10

    So với các nước phát triển trên thế giới thì nghề luật sư ở Việt Nam ra đời khá muộn và định hình chậm, việc ra đời của nghề luật sư gắn liền với sự thiết lập bộ máy cai trị của người Pháp trên toàn cõi Đông Dương. Thời gian này, vai trò của luật sư bị hạn chế rất nhiều bởi ý đồ chính trị của chính quyền thực dân Pháp.

    Ngay sau khi cách mạng tháng tám năm 1945 thành công, cùng với việc nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời ngày 02/9/1945. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 46/SL ngày 10/10/1945, quy định về luật sư và tổ chức luật sư đầu tiên ở nước Việt Nam độc lập cho dù lúc đó Chủ tịch Hồ Chí Minh bận bộn bề với việc chống thù trong giặc ngoài. Điều đó đủ cho thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giành sự quan tâm cho luật sư và hoạt động luật sư như thế nào. Vậy, nguyên nhân gì mà Chủ tịch Hồ Chí Minh lại quan đến đến luật sư như vậy?. Lục tìm các nguồn tài liệu hiện nay, tác giả chưa thấy có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ để lý giải nguyên nhân dẫn đến sự kiện lịch sử đó.

    Qua tìm hiểu thân thế, sự nghiệp, tư tưởng và đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta có thể phần nào hiểu được một số nguyên nhân cơ bản ảnh hưởng đến quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi ban hành Sắc lệnh số 46/SL.

    Lần lại hành trình đi tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta thấy rằng, thời gian ở Pháp, Nguyễn Tất Thành đã gặp nhà yêu nước Phan Văn Trường - một Tiến sỹ luật và là luật sư đầu tiên của Việt Nam tại Pháp, trong thời gian này, Nguyễn Tất Thành đã cùng nhà yêu nước Phan Chu Trinh ở nhà của luật sư Phan Văn Trường ở số 6 Village des Goblins và cùng tích cực nghiên cứu những luận thuyết của Mác, Ănghen và Lênin. Trong đó, luận cương của Lênin về các vấn đề thuộc địa đặc biệt được Nguyễn Tất Thành quan tâm.

    Là một nhà yêu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp thu tư tưởng lớn được thể hiện trong tuyên ngôn của cách mạng Tư sản dân quyền Pháp là: “Tự do, bình đẳng, bác ái” do đó Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi tự do của con người là quyền cơ bản, con người sinh ra phải được bình đẳng, phải được quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc và đó chính là quyền con người cơ bản hay còn gọi là nhân quyền, mà luật sư là một trong những nhân tố phản ánh và thể hiện xã hội dân chủ và đảm bảo quyền con người.

    Việc ra đời sự kiện lịch sử đó, phải chăng có một phần ảnh hưởng không nhỏ của việc Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được luật sư Lô Dơ Bai và người phó của ông là luật sư J.C. Jenkin bảo vệ, giúp đỡ thoát khỏi nhà tù của thực dân Anh và âm mưu bắt cóc của thực dân Pháp trong thời gian Chủ tịch Hồ Chí Minh sống và hoạt động tại Hồng Kông với bí danh là Tống Văn Sơ. Qua việc tiếp xúc và nhận được sự giúp đỡ của luật sư Lô Dơ Bai Chủ tịch Hồ Chí Minh càng nhận thấy vai trò quan trọng của luật sư trong đời sống xã hội.

    Hiện nay, một số học giả cho rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh còn xuất phát từ tư tưởng cao cả là giành độc lập và mưu cầu tự do, hạnh phúc cho nhân dân và dựa trên cơ sở là mối quan hệ sâu sắc giữa Người với luật sư Phan Văn Trường và luật sư Lô Dơ Bai, từ đó Người đã quan tâm đến luật sư và nghề luật sư ở Việt Nam.

    Ngoài Sắc lệnh số 46/SL ngày 10/10/1945 về tổ chức luật sư, Sắc lệnh số 163/SL ngày 23/3/1946 về tổ chức Tòa án binh cũng có quy định cho phép các bị cáo có quyền nhờ luật sư bào chữa. Tuy nhiên, trong một thời gian dài do hoàn cảnh chiến tranh mà vai trò của luật sư còn mờ nhạt trong đời sống xã hội. Nghề luật sư mới chỉ thực sự phát triển  với sự ra đời Pháp lệnh luật sư 2001 và sau đó được thay thế bằng Luật luật sư 2006.

    Việc ghi nhận về luật sư và tổ chức luật sư và được luật hóa bằng Sắc lệnh số 46-SL ngày 10/10/1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các văn bản pháp luật tiếp theo đã khẳng định quan điểm của Đảng và Nhà nước nhằm dân chủ hoá hoạt động tư pháp, đảm bảo công bằng xã hội là đúng đắn. Có thể nói sự hiện diện và phát triển của thiết chế luật sư được coi như là một tiêu chí quan trọng để khẳng định giá trị dân chủ trong xã hội nhất là trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay.

    Cho dù vì những nguyên nhân hay lý do gì dẫn đến việc Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh số 46/SL ngày 10/10/1945 thì giới luật sư Việt Nam vẫn có thể nhận thấy rằng ngày 10/10/1945 đáng được ghi nhận là ngày truyền thống của luật sư Việt Nam.
    Luật sư Nguyên ( theo luatsuvietnam.org.vn)

    Luật sư: NGUYỄN VĂN NGUYÊN

    CÔNG TY LUẬT HƯNG NGUYÊN - ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HÀ NỘI

    http://dichvutuvanluat.com - http://dichvuluatsu247.com

    Hotline: 0987.756.263/0947.347.268

    ĐT: 04.8585 7869

     
    7021 | Báo quản trị |  
    3 thành viên cảm ơn LUATSUNGUYEN vì bài viết hữu ích
    leanhthu (22/10/2012) nhatchuyen (04/10/2011) daonhan (04/10/2011)

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận
  • #137313   05/10/2011

    LUATSUNGUYEN
    LUATSUNGUYEN
    Top 25
    Male
    Lớp 10

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:20/01/2011
    Tổng số bài viết (2124)
    Số điểm: 14426
    Cảm ơn: 0
    Được cảm ơn 742 lần


    Tuổi trẻ luật sư Thủ đô vững vàng về phẩm chất chính trị, trong sáng về đạo đức nghề nghiệp và tinh thông về chuyên môn nghiệp vụ

    Luật sư Nguyên( (sưu tầm): Luật sư. Lê Đăng Tùng- UVBCH Đoàn TNCSHCM, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội

    Với gần 20 Chi đoàn trực thuộc Đoàn cơ sở, hoạt động rải rác trong hơn 700 tổ chức hành nghề luật sư, tuổi trẻ Đoàn luật sư thành phố Hà Nội có hàng trăm Đoàn viên, thanh niên hoạt  động trên nhiều lĩnh vực khác nhau như tranh tụng, tư vấn pháp luật và các dịch vụ pháp lý khác.

    Thật tự hào và vẻ vang cho tuổi trẻ Việt Nam, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, năm nay, 2011 được Đảng và Nhà nước ta chọn là Năm Thanh niên và một tin vui nữa với giới luật sư cả nước, đặc biệt tác động tới các luật sư trẻ là vào ngày 20.8.2011, Hội đồng luật sư toàn quốc đã thông qua Nghị quyết số14/NQ-HĐLSTQ chọn ngày 10 tháng 10 hàng năm là Ngày truyền thống luật sư Việt Nam để kỷ niệm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 46/SL ngày 10.10.1945 về tổ chức Đoàn thể luật sư. Đây là sự kiện hết sức quan trọng ghi nhận sự ra đời, phát triển của luật sư và hành nghề luật sư của Việt Nam, trong đó có sự đóng góp của không nhỏ của luật sư Thủ đô.

    Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị- xã hội của thanh niên Việt Nam do Đảng cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện. Đoàn bao gồm những thanh niên tiên tiến, phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

    Ngay sau khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời (ngày 03.02.1930), đánh dấu bước ngoặt trong lịch sử cách mạng Việt Nam, chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối lãnh đạo cách mạng Việt  Nam những năm đầu thế kỷ XX; Đảng ta đã nhìn nhận lực lượng quan trọng, đội dự bị tin cậy của mình chính là lực lượng thanh niên. Tại Hội nghị lần thứ 2 của BCHTW Đảng cộng sản Việt Nam những ngày cuối tháng 3.1931 đã dành thời gian quan trọng bàn về vấn đề thanh niên và sau này thật tự hào, vẻ vang cho tuổi trẻ Việt Nam, đã được Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhà nước ta quyết định chọn là ngày thành lập Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, 26.3.1931.

    Cùng với tuổi trẻ luật sư cả nước, ngoài hoạt động phong trào của Đoàn viên, thanh niên đó là các hoạt động xã hội, tình nguyện như hiến máu nhân đạo, giúp đỡ người nghèo, làm nghìn việc tốt vv, tuổi trẻ luật sư Đoàn luật sư thành phố Hà Nội hàng năm còn có nhiều phong trào hoạt động khác như thể dục, thể thao với bóng đá, tenis; các hoạt động ngoại khóa như tìm hiểu về biển đảo, nghiên cứu khoa học vv. Giữa năm 2011 vừa qua, kết hợp với hoạt động ngoại khóa, BCH Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội đã tổ chức thành công đêm giao lưu với chủ đề “Hải Hòa biển hát” ngay tại bờ biển Hải Hòa thuộc huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa. Tại đêm giao lưu này, lồng ghép với các hoạt động là những trò chơi đầy ý nghĩa tìm hiểu về biển đảo như “tìm ngọc đáy biển”…

    Trong sáng và lành mạnh ở hoạt động xã hội cũng như đạo đức nghề nghiệp của tuổi trẻ luật sư thành phố Hà Nội thì với hoạt động hành nghề luật sư Thủ đô luôn giữ vững phẩm chất chính trị và tinh thông về chuyên môn nghiệp vụ. Theo số liệu thống kê của UBND thành phố Hà Nội dịp Tổng kết 5 năm thực hiện Luật Luật sư thì tính đến 30.6.2011, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội có 1.678 luật sư trong đó lực lượng trẻ chiếm số đông, đa số có trình độ đại học và trên đại học; số lượng luật sư trẻ đứng trong hàng ngũ của Đảng cộng sản Việt Nam ngày càng nhiều. Cũng tính từ khi có Luật Luật sư, luật sư Hà Nội ngày càng đông về số lượng và chất lượng cũng dần được nâng cao, có hàng trăm luật sư với học vị tiến sĩ và thạc sĩ; trong số này với nhiều luật sư trẻ có học vị cao. Trong 5 năm có Luật Luật sư, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội đã có trên 700 tổ chức hành nghề; các luật sư tham gia tố tụng hơn 7000 vụ việc; tư vấn pháp luật và đại diện ngoài tố tụng hơn 20.000 vụ việc; dịch vụ pháp lý khác và trợ  giúp pháp lý miễn phí trên 10.000 vụ việc; đã nộp thuế cho nhà nước hàng trăm tỷ đồng.

    Đoàn TNCS Hồ Chí Minh- Đoàn luật sư Hà Nội dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đã không ngừng phát huy truyền thống cách mạng mà thế hệ cha anh đã dày công vun đắp, ra sức thi đua phấn đấu, học tập rèn luyện, giữ vững phẩm chất cách mạng, thực hiện lý tưởng cao cả mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn. Tuổi trẻ Đoàn luật sư thành phố Hà Nội tin tưởng rằng với sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng cộng sản Việt Nam - Người tổ chức mọi thắng lợi cách mạng Việt Nam, trực tiếp là Đảng ủy, BCN Đoàn luật sư thành phố Hà Nội; chắc chắn rằng với ước mơ cao, hoài bão lớn, lý tưởng cách mạng của tuổi trẻ,  những đoàn viên thanh niên của Đoàn luật sư thành phố Hà Nội sẽ không ngừng học tập, phấn đấu và rèn luyện để ngày càng vững vàng về phẩm chất chính trị, trong sáng về đạo đức nghề nghiệp và tinh thông về chuyên môn nghiệp vụ, xây dựng Đoàn luật sư thành phố Hà Nội, thành viên Liên Đoàn luật sư Việt Nam, trái tim của cả nước ngày càng to lớn góp phần phát triển thủ đô và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân ./.
    Luật sư Nguyên - Đoàn Luật sư Hà Nội. Theo luatsuvietnam.org.vn

    Luật sư: NGUYỄN VĂN NGUYÊN

    CÔNG TY LUẬT HƯNG NGUYÊN - ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HÀ NỘI

    http://dichvutuvanluat.com - http://dichvuluatsu247.com

    Hotline: 0987.756.263/0947.347.268

    ĐT: 04.8585 7869

     
    Báo quản trị |  
  • #137169   05/10/2011

    LUATSUNGUYEN
    LUATSUNGUYEN
    Top 25
    Male
    Lớp 10

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:20/01/2011
    Tổng số bài viết (2124)
    Số điểm: 14426
    Cảm ơn: 0
    Được cảm ơn 742 lần


    Luật sư không phải đối tượng bị "kiểm tra căn cước" tại phiên tòa hình sự

    (sưu tầm) ThS, LS Phạm Thanh Bình Công ty Luật Hồng Hà – Đoàn luật sư thành phố Hà Nội

    Ngày 18/3/2011, TAND quận Kiến An (Hải Phòng) xử một vụ vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ. Phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, sau khi kiểm tra căn cước của bị cáo, đại diện nạn nhân…, vị chủ tọa đã yêu cầu luật sư Đoàn Văn Phương (Đoàn Luật sư TP Hải Phòng, bào chữa cho bị cáo) đứng dậy để kiểm tra căn cước (!)

    Sự việc đã gây ra nhiều ý kiến tranh cãi trong giới nghiên cứu cũng như những người làm công tác áp dụng pháp luật xung quanh thủ tục cũng như đối tượng của việc kiểm tra căn cước tại phiên tòa. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin nêu một số ý kiến xung quanh việc “kiểm tra căn cước” quy định tại Điều 201 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS)

    Theo quy định tại Điều 201 BLTTHS thì một trong những thủ tục bắt đầu phiên tòa là việc “Sau khi nghe Thư ký Tòa án báo cáo danh sách những người được triệu tập đã có mặt, chủ tọa phiên tòa kiểm tra căn cước của những người đó…” Vậy việc kiểm tra căn cước là kiểm tra những nội dung gì? Kiểm tra căn cước nhằm mục đích gì? Những đối tượng nào bị Tòa kiểm tra căn cước và sau hết là để xác định “căn cước” của Luật sư thì cần có những giấy tờ gì?

    Trước hết nói về việc kiểm tra căn cước:

    Theo từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam thì căn cước là “những điểm cơ bản về gốc tích, quan hệ thân tộc, đặc điểm nhân dạng, đủ để phân biệt từng cá nhân trong xã hội. Nội dung căn cước gồm: họ, tên; ngày, tháng, năm sinh; họ, tên cha, mẹ; nơi thường trú; đặc điểm nhận dạng, vân tay, ảnh. Thẻ Căn cước là giấy chứng nhận ghi tóm tắt lí lịch của mỗi cá nhân, do chính quyền cấp cho các công dân…”  Ở Việt Nam, Thẻ căn cước được sử dụng trong thời Pháp thuộc (1945 trở về trước) như Giấy thông hành hoặc Giấy chứng minh trong phạm vi toàn Đông Dương. Đến năm 1946, theo Sắc lệnh số 175 - b ngày 6.9.1946 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Thẻ công dân được sử dụng thay cho thẻ Căn cước. Thẻ công dân chứng nhận về nhân thân và những đặc điểm riêng của mỗi công dân, bao gồm: họ tên, ngày tháng năm sinh, tên bố mẹ, nguyên quán, trú quán, chức nghiệp... do Uỷ ban hành chính xã, thị xã hoặc thành phố, nơi nguyên quán hoặc trú quán của công dân cấp cho công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên. Từ năm 1957, Thẻ công dân được thay bằng Giấy chứng minh; năm 1976, Giấy Chứng minh nhân dân được sử dụng thống nhất trong cả nước, từ năm 1999, được thay bằng Chứng minh nhân dân (CMND) theo quy định của Chính phủ.

    Như vậy, kiểm tra căn cước là việc cơ quan có thẩm quyền xác định những đặc điểm về nhân thân của đối tượng bị kiểm tra để phục vụ cho một công việc nhất định; việc kiểm tra căn cước có thể qua CMND hoặc qua các giấy tờ tùy thân khác có mô tả những đặc điểm về nhân thân của đối tượng do đương sự xuất trình hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thu giữ được.

    Về các đối tượng bị kiểm tra căn cước trong phiên tòa hình sự:

    Trong phiên tòa hình sự, việc kiểm tra căn cước do chủ tọa phiên tòa tiến hành nhằm xác định đúng “những người được triệu tập” để bảo đảm cho việc xét xử được đúng người (đối với bị cáo) và đúng pháp luật (đối với bị cáo và những người tham gia tố tụng khác); bảo đảm cho việc xét xử được thuận lợi, Trong thực tiễn xét xử đã xảy ra nhiều trường hợp do chủ tọa phiên tòa không kiểm tra căn cước thận trọng, kỹ lưỡng nên đã xảy ra việc xét xử “nhầm”, khiến cho việc giải quyết vụ án bị kéo dài, gây nên những phiền phức không đáng có cho các cơ quan tiến hành tố tụng.

    Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật tố tụng, việc kiểm tra căn cước không áp dụng đối với tất cả những người tham gia tố tụng mà chỉ được áp dụng đối với “những người được triệu tập”. Đây là “những người được triệu tập để xét hỏi tại phiên tòa”, được Tòa án ghi rõ trong Quyết định đưa vụ án ra xét xử và “Căn cứ vào quyết định đưa vụ án ra xét xử, Thẩm phán triệu tập những người cần xét hỏi đến phiên tòa” (Điều 178, Điều 183 BLTTHS). Thủ tục này cũng được áp dụng tại phiên tòa Phúc thẩm vì thủ tục bắt đầu “phiên tòa phúc thẩm cũng tiến hành như phiên tòa sơ thẩm” (Điều 247 BLTTHS).

    Như vậy, mặc dù việc kiểm tra căn cước chỉ được áp dụng đối với “những người được triệu tập” nhưng không phải tất cả “những người được triệu tập” đều bị kiểm tra căn cước mà chỉ là “những người được triệu tập để xét hỏi tại phiên tòa” mới bị áp dụng thủ tục này.

    Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TANDTC số04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ ba "Xét xử sơ thẩm" của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, khi hướng dẫn về Điều 201 của BLTTHS cũng đã nêu rất rõ:

    “1.1. Việc kiểm tra căn cước của những người được triệu tập và có mặt tại phiên toà được thực hiện như sau:

    A. Đối với bị cáo phải hỏi họ để họ khai về: họ tên; ngày, tháng, năm sinh; nơi sinh; nơi cư trú (nơi đăng ký hộ khẩu thường trú; nơi tạm trú); nghề nghiệp; trình độ văn hoá; hoàn cảnh gia đình (bố, mẹ, vợ hoặc chồng, con); tiền án, tiền sự; ngày bị tạm giữ, tạm giam.

    B. Đối với người đại diện hợp pháp của bị cáo phải hỏi họ để họ khai về: họ tên; tuổi; nghề nghiệp; nơi sinh; nơi cư trú; quan hệ thế nào với bị cáo.

    C. Đối với người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người đại diện hợp pháp của họ phải hỏi họ để họ khai về: họ tên; tuổi; nghề nghiệp; nơi cư trú. Trong trường hợp người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là cơ quan, tổ chức thì khai về: tên và địa chỉ trụ sở chính của cơ quan, tổ chức; họ tên; tuổi; nghề nghiệp; nơi cư trú của người đại diện hợp pháp cho cơ quan, tổ chức.

    1.4. Đối với người phiên dịch, người giám định, chủ toạ phiên toà yêu cầu họ phải cam đoan làm tròn nhiệm vụ; đối với người làm chứng là người thành niên yêu cầu họ phải cam đoan không khai gian dối.”

    Như vậy, theo hướng dẫn nói trên, chủ tọa phiên tòa chỉ kiểm tra căn cước đối với bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp của họ và người đại diện hợp pháp cho cơ quan, tổ chức. Nội dung của việc “kiểm tra căn cước” đối với từng loại người tham gia tố tụng cũng đã được Nghị quyết hướng dẫn cụ thể. Nghị quyết 04 không hướng dẫn việc kiểm tra căn cước đối với người bào chữa; người phiên dịch, người giám định, người làm chứng là người thành niên. Nghị quyết chỉ quy định chủ toạ phiên toà phảỉ yêu cầu họ cam đoan làm tròn nhiệm vụ (đối với người phiên dịch, người giám định) hoặc cam đoan không khai báo gian dối (đối với người làm chứng).

    Người bào chữa cũng là một trong những người tham gia tố tụng, cũng được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa nhưng không phải là người “được triệu tập để xét hỏi tại phiên tòa”; họ tham gia tố tụng để làm nhiệm vụ bào chữa nhằm “làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo”, giúp “người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ”… Phạm vi hoạt động của họ khi tham gia tố tụng cũng rộng hơn người phiên dịch, người giám định và mang những yếu tố “đặc thù” so với những người tham gia tố tụng khác. Trước khi tham gia tố tụng, người bào chữa (nếu là Luật sư) đã phải xuất trình đầy đủ các “giấy tờ liên quan đến việc bào chữa” để được cơ quan tiến hành tố tụng cấp giấy chứng nhận người bào chữa (khoản 4 Điều 56 BLTTHS) và những giấy tờ này đã được lưu trong hồ sơ vụ án nên người bào chữa không phải là đối tượng để Tòa án kiểm tra căn cước. Vì vậy, chúng tôi cho rằng việc yêu cầu người bào chữa (Luật sư) phải xuất trình cả…CMND không chỉ là “thừa” mà còn là việc làm không phù hợp với các quy định của pháp luật.

    Chứng chỉ hành nghề Luật sư không phải là “Thẻ căn cước” của Luật sư

    Hiện nay, vẫn xảy ra một tình trạng khá phổ biến là ở các co quan tiến hành tố tụng nói chung và ở Tòa án các cấp, các địa phương nói riêng vẫn yêu cầu Luật sư khi đến làm thủ tục đề nghị cấp Giấy chứng nhận người bào chữa (GCNNBC) phải xuất trình thêm Chứng chỉ hành nghề Luật sư (CCHNLS) với lý do “để xác định người đề nghị cấp GCNNBC có phải là Luật sư hay không?”(!)

    Theo quy định tại Điều 20 Luật Luật sư thì người được cấp CCHNLS, nếu gia nhập một Đoàn luật sư do mình lựa chọn để hành nghề luật sư thì được tổ chức luật sư toàn quốc (Liên đoàn Luật sư Việt Nam) cấp Thẻ luật sư theo đề nghị của Đoàn luật sư. Như vậy, chỉ người được Bộ Tư pháp cấp CCHNLS thì mới có thể gia nhập Đoàn Luật sư và cũng chỉ sau khi gia nhập Đoàn Luật sư, người đó mới được cấp Thẻ Luật sư. Nói cách khác, người không có CCHNLS thì không được cấp Thẻ Luật sư và ngược lại, người đã có Thẻ Luật sư thì đương nhiên phải có CCHNLS.

    Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 2 Điều 27 Luật Luật sư thì “Luật sư được cơ quan tiến hành tố tụng cấp giấy chứng nhận người bào chữa …khi xuất trình đủ giấy tờ thuộc một trong các trường hợp sau đây:

    a) Thẻ luật sư, giấy yêu cầu luật sư của khách hàng và giấy giới thiệu của tổ chức hành nghề luật sư hoặc của chi nhánh tổ chức hành nghề luật sư nơi luật sư đó hành nghề đối với trường hợp luật sư hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư;

    b) Thẻ luật sư, giấy yêu cầu luật sư của khách hàng và giấy giới thiệu của Đoàn luật sư nơi luật sư đó là thành viên đối với trường hợp luật sư hành nghề với tư cách cá nhân; Thẻ luật sư và giấy giới thiệu của cơ quan, tổ chức nơi luật sư hành nghề với tư cách cá nhân làm việc theo hợp đồng lao động để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó;

    c) Thẻ luật sư và văn bản cử luật sư của tổ chức hành nghề luật sư hoặc của chi nhánh tổ chức hành nghề luật sư nơi luật sư đó hành nghề đối với luật sư hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư hoặc Thẻ luật sư và văn bản phân công của Đoàn luật sư đối với luật sư hành nghề với tư cách cá nhân để tham gia tố tụng trong vụ án hình sự theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng...”

    Như vậy, dù hành nghề với hình thức nào thì Thẻ Luật sư (hiện do Liên đoàn Luật sư Việt Nam cấp, có ghi rõ họ, tên, ngày tháng năm sinh, số CCHNLS, Đoàn Luật sư … và dán ảnh của người được cấp thẻ) là tài liệu đủ thông tin để “xác nhận căn cước” của Luật sư. Vì vậy, chúng tôi cho rằng việc yêu cầu Luật sư phải xuất trình thêm CCHNLS khi đến làm thủ tục đề nghị cấp GCNNBC cũng là việc làm thừa và không phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành.

    Để bảo đảm cho việc áp dụng pháp luật được thống nhất, bảo đảm nguyên tắc pháp chế XHCN trong tố tụng hình sự, bảo đảm quyền “nhờ người khác bào chữa” của bị cáo, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của Luật sư khi tham gia tố tụng, thiết nghĩ bên cạnh việc Tòa án các cấp cần nắm vững các quy định của pháp luật tố tụng hiện hành để vận dụng cho phù hợp, tránh việc “làm khó” cho Luật sư (như các hiện tượng nêu trong bài viết này); Tòa án nhân dân tối cao cũng cần có các biện pháp nghiêm khắc để chấn chỉnh và khắc phục kịp thời những đòi hỏi “ngoài luật” khi được phản ánh (qua các phương tiện thông tin đại chúng hoặc của chính những người trong cuộc).
    Nguyễn Nguyên (sưu tầm theo luatsuvietnam.org.vn)

    Luật sư: NGUYỄN VĂN NGUYÊN

    CÔNG TY LUẬT HƯNG NGUYÊN - ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HÀ NỘI

    http://dichvutuvanluat.com - http://dichvuluatsu247.com

    Hotline: 0987.756.263/0947.347.268

    ĐT: 04.8585 7869

     
    Báo quản trị |