Căn cứ theo khoản 1 Điều 4 Luật cư trú 2020 thì: “1. Công dân thực hiện quyền tự do cư trú theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.”
Tại khoản 2, Điều 4 Luật Hôn nhân và Gia đình cấm người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ.
Pháp luật chỉ quy định người thuê trọ có quyền và nghĩa vụ đăng ký tạm trú, thực hiện đầy đủ quy định về cư trú theo Điều 11, điều 28 Luật Cư trú như sau: Chấp hành các quy định của pháp luật về cư trú; cung cấp đầy đủ, chính xác thông tin, tài liệu về cư trú của mình cho cơ quan, người có thẩm quyền và chịu trách nhiệm về thông tin, tài liệu đã cung cấp; nộp lệ phí đăng ký cư trú; xuất trình sổ hộ khẩu, sổ tạm trú, giấy tờ khác liên quan đến cư trú khi cơ quan, người có thẩm quyền yêu cầu.
Ngoài ra, việc thực hiện quyền tự do cư trú của công dân chỉ bị hạn chế theo quy định như:
- Người bị cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, biện pháp tạm giữ, tạm giam;
- Người đang chấp hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn,
- Người bị cách ly do có nguy cơ lây lan dịch bệnh cho cộng đồng…
Cá nhân sống chung như vợ chồng với người chưa đến tuổi thành niên từ đủ 13 - 16 tuổi sẽ bị xử lý hình sự về tội giao cấu với trẻ em.
Như vậy, hiện nay pháp luật Việt Nam cũng không cấm hai người đã trưởng thành chưa có vợ, có chồng cư trú tại cùng một nơi ở hợp pháp, nếu không vi phạm quy định hôn nhân một vợ một chồng, Luật cư trú không cấm nam, nữ không có đăng ký kết hôn chung sống với nhau.