Căn cứ Điều 6 Nghị định 91/2019/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai như sau:
“Điều 6. Áp dụng mức phạt tiền
1. Đối tượng áp dụng mức phạt tiền thực hiện như sau:
a) Mức phạt tiền quy định tại Chương II của Nghị định này áp dụng đối với cá nhân, trừ các trường hợp quy định tại điểm b khoản này; mức phạt tiền đối với tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân có cùng một hành vi vi phạm hành chính;
b) Mức phạt tiền quy định tại khoản 4 Điều 19, Điều 20, Điều 21, Điều 22, khoản 4 Điều 26, Điều 27, Điều 28, khoản 2 Điều 30, Điều 31 và Điều 37 của Nghị định này áp dụng đối với các tổ chức.
…”
Theo đó, tại Điều 14 Chương II của Nghị định này quy định, trường hợp lấn, chiếm đất phi nông nghiệp thì phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng nếu diện tích đất lấn, chiếm từ 01 héc ta trở lên. Trường hợp lấn, chiếm đất phi nông nghiệp tại khu vực đô thị thì mức xử phạt bằng 02 lần mức xử phạt đối với loại đất tương ứng và mức phạt tối đa không quá 500.000.000 đồng đối với cá nhân, không quá 1.000.000.000 đồng đối với tổ chức.
Dựa vào các quy định trên, cá nhân lấn, chiếm đất phi nông nghiệp tại khu vực nông thôn từ 01 héc ta trở lên thì sẽ bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng. Đối với khu vực tại đô thị, mức phạt sẽ bằng 02 lần, tức là từ 400.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng.
Tuy nhiên, tại Điều 14 Nghị định trên đã nêu rõ là mức phạt tối đa không quá 500.000.000 đồng đối với cá nhân và không quá 1.000.000.000 đồng đối với tổ chức.
Như vậy, nếu tổ chức lấn, chiếm đất phi nông nghiệp tại khu vực đô thị từ 01 héc ta trở lên thì:
- Mức phạt bằng 02 lần đối với cá nhân: từ 800.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng;
- Buộc trả lại đất đã lấn, chiếm;
- Nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm.