Chào bạn!
Dựa vào những thông tin mà bạn cung cấp, tôi có một số ý kiến đóng góp như sau:
Thứ nhất, về việc ly hôn
Theo thông tin bạn cung cấp, người chồng đã khởi kiện đơn phương ly hôn. Về việc đơn phương ly hôn, Điêu 56 Luật Hôn nhân gia đình 2014 quy định như sau:
“Điều 56. Ly hôn theo yêu cầu của một bên
1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.”
Căn cứ quy định trên, Tòa án sẽ giải quyết cho ly hôn nếu hòa giải không thành và có căn cứ về việc một bên đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ vợ chồng mà cụ thể ở đây là người chồng đã ngoại tình với cô Mai và bị em gái bạn bắt gặp nhiều lần. Hơn nữa, người chồng đã không gửi tiền và nuôi dưỡng con. Đó là những căn cứ làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng nghiêm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Sau khi tiếp nhận yêu cầu đơn phương ly hôn, Tòa án sẽ xem xét giải quyết cho hai vợ chồng em gái bạn ly hôn.
Thứ hai, về quyền lợi của vợ khi phân chia tài sản chung là nhà và đất:
- Về quyền sử dụng đất:
Theo thông tin bạn cung cấp thì mẹ chồng mất đi mà không để lại di chúc hay giấy tờ tặng cho quyền sử dụng đất, nên căn cứ Điểm a, Khoản 1, Điều 675, BLDS 2005, toàn bộ quyền sử dụng đất mà mẹ chồng để lại sẽ được chia theo pháp luật. Thêm vào đó, vì chồng của em gái bạn là con một, cha chồng đã mất tích nên Theo BLDS 2005, toàn bộ quyền sử dụng đất sẽ thuộc về chồng bạn. Do quyền sử dụng đất là của chồng bạn được thừa kế riêng nên căn cứ Điều 43, Luật hôn nhân và gia đình 2014, đây là tài sản riêng của chồng em gái bạn.
“Điều 43. Tài sản riêng của vợ, chồng
1. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.”
- Về ngôi nhà:
Theo thông tin bạn cung cấp thì vợ chồng em gái bạn về ở với mẹ chồng từ năm 2002, sau đó đến năm 2007 thì đập xây nhà mới, đến 2008, sau khi mẹ mất thì xây thêm hai ngôi nhà nữa, sau đó vợ chồng cùng tôn tạo, xây dựng nhà cửa mới. Như vậy, bởi vì em bạn cũng có đóng góp trong việc xây dựng nhà cửa nên căn cứ vào mức độ đóng góp của người vợ thì Tòa án sẽ xem xét chứng cứ của việc đóng góp, nhu cầu thực tế cũng như mức độ lỗi để chia căn nhà đó. Tuy nhiên, trên thực tiễn xét xử, vì ngôi nhà là tài sản chung hợp nhất nên Tòa án thường sẽ định giá, sau đó chia đôi giá trị ngôi nhà. Bên nào sử dụng ngôi nhà thì phải trả cho bên kia một nửa giá trị ngôi nhà.
Thứ ba, về việc cấp dưỡng
Thông thường, thời điểm phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng là ngày tuyên án. Tuy nhiên trong thực tế, nếu chồng em gái bạn thừa nhận hoặc bạn có chứng cứ chứng minh việc chồng em gái bạn không đóng góp về mặt tiền bạc, công sức để nuôi con từ khi khởi kiện thì chồng của em gái bạn đã vi phạm nghĩa vụ chung của cha mẹ.
“Điều 69. Nghĩa vụ và quyền của cha mẹ
1. Thương yêu con, tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập, giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội.
2. Trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Khi đó, bạn có thể yêu cầu chồng bạn hỗ trợ việc nuôi con trong thời gian phân xử ly hôn. Lúc này Tòa án sẽ có thể xem xét việc buộc chồng bạn cấp dưỡng từ thời điểm khởi kiện.
Thứ tư, về việc tạm đình chỉ thi hành án
Theo thông tin bạn cung cấp thì trước đó Tòa án đã ra quyết định tạm đình chỉ “vụ án cần đợi kết quả giải quyết của cơ quan khác có liên quan đến vụ án” và đã định ngày 07/03/2017 khi mà chưa có kết luận của cơ quan điều tra về việc xử lý những người đe dọa đánh em gái bạn cũng như kết quả giải quyết đơn tố cáo bà Mai quan hệ bất chính với chồng em gái bạn.
Ở đây, có ba hành vi có thể bị xem xét dấu hiệu phạm tội hình sự: (1) hành vi sống với nhau như vợ chồng của Bà Mai và người chồng; (2) Hành vi đe dọa giết người của những người do bà Mai thuê đối với người vợ; (3) Hành vi trộm cắp của người chồng em gái bạn. Theo quan điểm của chúng tôi, kết quả giải quyết của cơ quan công an đối với việc xem xét trách nhiệm hình sự về hành vi sống như vợ chồng của bà Mai và chồng em gái bạn mới có thể trở thành căn cứ Tạm định chỉ giải quyết vụ án ly hôn của vợ chồng em gai bạn. Còn kết quả giải quyết về hành vi đe dọa và trộm cắp thì có thể không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án ly hôn.
Do vậy, trường hợp này em gái bạn nên có đơn trình báo, tố giác tội phạm về hành vi đe dọa giết người của Bà Mai. Trường hợp đã có đơn, em gái bạn có thể liên lạc với cơ quan công an để biết được tiến trình giải quyết việc xem xét trách nhiệm hình sự đối với Bà Mai và chồng em gái bạn cũng như liên lạc với cơ quan của bà Mai để biết được đơn tố cáo hành vi bất chính của Bà Mai với Chồng em gái bạn đã được xử lý thế nào. Trường hợp chồng bạn và người tình có dấu hiệu tội phạm, bị khởi tố bị can thì bạn có thể làm đơn yêu cầu Tòa án tạm đình chỉ vụ án cho đến khi có kết quả giải quyết. Tuy nhiên, qua quá trình điều tra, nếu không có dấu hiệu về tội vi phạm chế độ một vợ một chồng và xét thấy kết quả giải quyết trách nhiệm đối với người đe dọa bạn không ảnh hưởng đến việc giải quyết ly hôn thì Tòa án vẫn có thể tiếp tục giải quyết vụ án.
Thứ năm, về việc xem xét trách nhiệm hình sự đối với chồng em gái bạn và bà Mai:
Điều 147 BLHS 1999 sửa đổi, bổ sung 2009 quy định về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng như sau:
“Điều 147. Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng
1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm.
2. Phạm tội trong trường hợp đã có quyết định của Toà án tiêu huỷ việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.”
Theo quy đinh trên thì tội này sẽ bị xử phạt nếu có hành vi gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bi xử phạt hành chính mà còn vi phạm. Cụ thể Khoản a mục 3.2 Thông tư liên tịch 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC đã giải thích cụ thể về cụm từ “gây hậu quả nghiêm trọng” như sau:
“3.2. Chỉ có thể truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng gây hậu quả nghiêm trọng.
Hậu quả nghiêm trọng có thể là làm cho gia đình của một hoặc cả hai bên tan vỡ dẫn đến ly hôn, vợ hoặc chồng, con vì thế mà tự sát, v.v...”
Theo như bạn nói thì chồng em gái đã khởi kiện đơn phương ly hôn. Tuy nhiên, hai vợ chồng chỉ chấm dứt quan hệ vợ chồng khi có bản án, quyết định có hiệu lực cảu Tòa án nên trường hợp này, vợ chồng em gái bạn vẫn được xem là chưa ly hôn. Do vậy, hành vi sống với nhau như vợ chồng của Bà Mai và chồng em gái bạn chưa đủ dấu hiệu cấu thành tội vi phạm chế độ một vợ một chồng. Tuy nhiên, hành vi này có thể bị xử phạt hành chính theo khoản 1 Điều 48 Nghị định 110/2013/NĐ-CP. Cụ thể điều này quy định như sau:
“1. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
a) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn với người khác, chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;
b) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác;
c) Chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ
...”.
Tuy nhiên, cũng cần nói rõ, việc cho rằng bà Mai và chồng em gái bạn chung sống với nhau như vợ chồng cần phải có bằng chứng rõ ràng. Theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC hướng dẫn áp dụng Chương XV "Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình" của Bộ luật hình sự do Bộ Tư pháp - Bộ Công an - TANDTC - Viện KSNDTC ban hành, thì hành vi “chung sống như vợ chồng”: Là việc người đang có vợ, có chồng chung sống với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà lại chung sống với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ một cách công khai hoặc không công khai nhưng cùng sinh hoạt chung như một gia đình. Việc chung sống như vợ chồng thường được chứng minh bằng việc có con chung, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng, có tài sản chung đã được gia đình cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó...
Thứ sáu, theo thông tin bạn cung cấp thì chồng em gái bạn đã có hành vi đột nhập vào nhà em gái bạn lấy tiền và chiếc điện thoại. Hành vi này là hành vi lén lút vì người chồng vào căn nhà, lấy tiền và điện thoại của em gái bạn lúc 2-3 giờ sáng mà không có sự cho phép của em gái bạn với mục đích hủy bằng chứng ngoại tình và chiếm đoạt tiền của em gái bạn. Vì bạn không đề cập đến tổng thiệt hại nên nếu tổng giá trị tài sản mà em gái bạn bị mất trên 02 triệu hoặc thuộc một số trường hợp dưới đây thì căn cứ Điều 138, BLHS, chồng em gái bạn có thể bị truy tố về tội ”Trộm cắp tài sản”. Cụ thể điều này quy định:
“Điều 138. Tội trộm cắp tài sản
1.Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.”
Thứ bảy, về hành vi đe dọa giết em gái bạn của những người do bà Mai thuê:
BLHS quy định về Tội đe dọa giết người như sau:
“Điều 103. Tội đe dọa giết người
1.Người nào đe doạ giết người, nếu có căn cứ làm cho người bị đe doạ lo sợ rằng việc đe doạ này sẽ được thực hiện, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.”
Mà theo thông tin bạn cung cấp, có hai người đã đe dọa em gái bạn: “Lần này cảnh cáo mày lần sau coi chừng chúng tao giết” khiến em gái bạn sợ quá nên hô hoán la lên và có sự chứng kiến của hàng xóm. Về mặt pháp lý, nếu hành vi đe dọa giết người của những người này thể hiện ở mức độ khiến cho em gái bạn sợ rằng mình sẽ bị giết thật thì hành vi của những người này có thể cấu thành tội đe dọa giết người theo Điều 103 BLHS.
Tuy nhiên, về mặt thực tế, việc chứng minh những người này đã có lời nói đe dọa giết chết em gái bạn khá khó khăn, trừ khi có những người làm chứng chứng kiến lời nói, những hành vi chửi mắng, đe dọa giết em bạn hay những phản ứng, thái độ của em bạn trước lời đe dọa đó.
Thêm vào đó, bạn có nói công an đã điều tra ra người chủ mưu là bà Mai, chồng em gái bạn là người cung cấp những bức ảnh. Trường hợp kết luận này là đúng thì do bà Mai cùng những người mà bà Mai thuê để đe doạ bạn cùng cố ý thực hiện việc đe doạ em gái bạn nên bà Mai có thể bị truy tố về tội đe dọa giết người (đồng phạm với vai trò là người tổ chức). Bên cạnh đó, vì chồng em gái bạn cũng có mong muốn đuổi ba mẹ con em gái bạn ra khỏi nhà nên có thể đã tham gia giúp sức cho việc thực hiện việc đe doạ giết em gái bạn như việc cung cấp thông tin về địa chỉ nhà của em gái bạn và nhà của bố mẹ bạn,…nên cũng có thể bị truy tố về tội đe doạ giết người (đồng phạm với vai trò người giúp sức).
Hiện tại, do các thông tin mà bạn cung cấp còn hạn chế, nên tôi chỉ có thể trả lời sơ bộ cho bạn như vậy. Để có được câu trả lời chính xác hơn bạn nên liên hệ trực tiếp với luật sư để cung cấp thêm những thông tin cụ thể, cũng như trao đổi để tìm ra phương án tốt nhất.
BỘ PHẬN TƯ VẤN PHÁP LUẬT DÂN SỰ | CÔNG TY LUẬT VIỆT KIM
M: (+84-4) 32.123.124; (+84-4) 32.899.888 - E: cle.vietkimlaw@gmail.com; luatvietkim@gmail.com - W: www.vietkimlaw.com
Ad: Trụ sở chính - Tầng 5, Tòa nhà SHB, 34 Giang Văn Minh, Ba Đình, HN | VPGD - Tầng 5, Nhà C, 236 Hoàng Quốc Việt, Cầu Giấy, HN.