Chào bạnh,về vấn đề của bạn tôi xin có ý kiến như sau:
- Trước hết về việc cho vay nặng lãi của những người kia đối với bà T: do bạn không có nói rõ thời điểm nào việc cho vay được thực hiện và 20 hay 30 % trên tháng hay năm nên khó xác định thời điểm đó lãi suất cơ bản của Ngân hàng là bao nhiêu để có thể tố giác những người kia về "tội cho vay nặng lãi". VÌ vậy bạn có thể căn cứ vào quy định sau đây:
Điều 476 BLDS 2005:
1. Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng.
2. Trong trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất hoặc có tranh chấp về lãi suất thì áp dụng lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ.
Như vậy, nếu trường hợp trên khi có tranh chấp xảy ra, Tòa án sẽ áp dụng quy định trên để Tuyên không chấp nhận mức lãi suất hai bên đã thỏa thuận mà áp dụng mức lãi suất cơ bản của Ngân hàng.
-Về việc bạn nói bà T bị ép ký giấy sang nhượng quyền sử dụng đất (hợp đồng chuyển nhượng) cho bên cho vay kia: nếu thực tế là như vậy, bà T phải chứng minh được mình đã bị ép khi ký vào hợp đồng chuyển nhượng. Việc này phải có bằng chứng, người làm chứng mới có hiệu lực chứ không chỉ nói bằng miệng.
Hơn nữa, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải được công chứng hoặc chứng thực. Do đó, việc ra công chứng, chứng thực mà bà T bị ép thì lúc hợp đồng chuyển nhượng được gọi là Văn bản công chứng, công với chứng minh được mình bị ép. Bà T có thể yêu cầu Tòa án tuyên bố Văn bản công chứng trên vô hiệu vì bị cưỡng ép, đe dọa theo Điều 132BLDS.
Tuy nhiên, hiện nay thì việc yêu cầu tuyên văn bản công chứng vô hiệu thường không được Tòa án thụ lý với lý do Luật chưa quy định rõ. Hiện Bộ Luật tố tụng dẫn sự sửa đổi bổ sung sắp có hiệu lực ngày 01/01/2012 có quy định rõ vấn đề này. Nên bà T có thể chờ vài tháng nữa thì se thuận lợi hơn.
Lưu ý: Thời điểm bà T ký Hợp đồng trên là khi nào để xác định thời hiệu khởi kiện còn hay hết vì đối với trường hợp này thời hiệu khởi kiện là 02 (hai) năm theo điều 136 BLDS.
_Đối với việc không thi hành án được, chi cục thi hành án đã đúng vì bạn Khởi kiện bà T sau ngày bà T ký hợp đồng chuyển nhượng. Hợp đồng đến thời điểm đó có hiệu lực vì bà T chưa có hành v khởi kiện và cũng chưa có quyết định nào về hủy bỏ hợp đồng trên.
Đồng thời khởi kiện hành vi cho vay nặng lãi của bên kia đến Tòa án để được giải quyết.
Tôi là Nguyễn Tư Linh
Điện thoại: + 0947-877-223
Email: catandic@gmail.com