Chào bạn,
Căn cứ vào thông tin mà bạn đã cung cấp, tôi xin có một số góp ý như sau:
Vấn đề thứ nhất, điều kiện để được cấp bằng sáng chế. Căn cứ khoản 1, Điều 58 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi bổ sung năm 2009, sáng chế được bảo hộ nếu đáp ứng đầu đủ các điều kiện sau:
* Tính mới:
- Sáng chế được coi là có tính mới nếu chưa bị bộc lộ công khai dưới hình thức sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc bất kỳ hình thức nào khác ở trong nước hoặc ở nước ngoài trước ngày nộp đơn đăng ký sáng chế hoặc trước ngày ưu tiên trong trường hợp đơn đăng ký sáng chế được hưởng quyền ưu tiên.
- Sáng chế được coi là chưa bị bộc lộ công khai nếu chỉ có một số người có hạn được biết và có nghĩa vụ giữ bí mật về sáng chế đó.
- Sáng chế không bị coi là mất tính mới nếu được công bố trong các trường hợp sau đây với điều kiện đơn đăng ký sáng chế được nộp trong thời hạn sáu tháng kể từ ngày công bố:
+ Sáng chế bị người khác công bố nhưng không được phép của người có quyền đăng ký
+ Sáng chế được người có quyền đăng ký công bố dưới dạng báo cáo khoa học;
+ Sáng chế được người có quyền đăng ký trưng bày tại cuộc triển lãm quốc gia của Việt Nam hoặc tại cuộc triển lãm quốc tế chính thức hoặc được thừa nhận là chính thức.
• Trình độ sáng tạo:
Sáng chế được coi là có trình độ sáng tạo nếu căn cứ vào các giải pháp kỹ thuật đã được bộc lộ công khai dưới hình thức sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc dưới bất kỳ hình thức nào khác ở trong nước hoặc ở nước ngoài trước ngày nộp đơn hoặc trước ngày ưu tiên của đơn đăng ký sáng chế trong trường hợp đơn đăng ký sáng chế được hưởng quyền ưu tiên, sáng chế đó là một bước tiến sáng tạo, không thể được tạo ra một cách dễ dàng đối với người có hiểu biết trung bình về lĩnh vực kỹ thuật tương ứng.
• Khả năng áp dụng công nghiệp:
Sáng chế được coi là có khả năng áp dụng công nghiệp nếu có thể thực hiện được việc chế tạo, sản xuất hàng loạt sản phẩm hoặc áp dụng lặp đi lặp lại quy trình là nội dung của sáng chế và thu được kết quả ổn định.
Nếu sáng chế của bạn đáp ứng đầu đủ các điều kiện trên thì mới được xem xét cấp bằng độc quyền sáng chế. Tuy nhiên, nếu trên thị trường đã có sản phẩm tương tự của nước ngoài lưu hành và được cấp bằng sáng chế thì chưa chắc sản phẩm của bạn đã được cấp bằng độc quyền vì không đảm bảo tính mới.
Vấn đề thứ hai là hiệu lực của bằng độc quyền sáng chế: bằng độc quyền sáng chế chỉ có hiệu lực từ ngày cấp và kéo dài đến hết hai mươi năm kể từ ngày nộp đơn. Hết thời hạn trên, chủ sở hữu không thể gia hạn hiệu lực của văn bằng bảo hộ đối tượng này.
Bằng độc quyền sáng chế ngoài việc đem lại các lợi ích kinh tế thì còn có vai trò rất quan trọng là đảm bảo hạn chế tính cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Bởi vì, nó cho phép bạn tìm đến nhà bán sỉ hay nhà phân phối và nói với họ một cách tự tin rằng không có ai khác trên thị trường được phép sản xuất, bán, sử dụng hoặc phân phối sản phẩm mới hoặc được cải tiến của bạn nếu không được bạn cho phép.
Do đó, dù được cấp bằng độc quyền sáng chế hay không thì nếu đáp ứng điều kiện kinh doanh thì sản phẩm của bạn vẫn được lưu hành trên thị trường tuy nhiên nếu chưa được cấp thì chưa được bảo hộ với những ưu thế trên. Thêm nữa, nếu sản phẩm đã được người khác đăng ký bảo hộ độ quyền sáng chế thì rất có thể bạn đứng trước nguy cơ vi phạm độc quyền sáng chế.
Hiện tại, do các thông tin bạn cung cấp còn hạn chế, nên tôi chỉ có thể trả lời sơ bộ cho bạn như vậy.Để có thể có được câu trả lời chính xác hơn, bạn nên liên hệ trực tiếp với luật sư để cung cấp thêm những thông tin cụ thể, cũng như trao đổi để tìm ra phương án giải quyết tốt nhất
Trân trọng,
Chuyên viên tư vấn Ngô Thị Phúc.
BỘ PHẬN TƯ VẤN PHÁP LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ | CÔNG TY LUẬT VIỆT KIM
M: (+84-4) 32.123.124; (+84-4) 32.899.888 - E: cle.vietkimlaw@gmail.com; luatvietkim@gmail.com - W: www.vietkimlaw.com
Ad: Trụ sở chính - Tầng 5, Tòa nhà SHB, 34 Giang Văn Minh, Ba Đình, HN | VPGD - Tầng 5, Nhà C, 236 Hoàng Quốc Việt, Cầu Giấy, HN.