Bằng chứng ghi nhận quyền sở hữu phần vốn góp của thành viên là một vấn đề không rõ ràng theo Luật doanh nghiệp 2005 và vẫn tiếp tục không rõ ràng theo Luật doanh nghiệp 2014.
Theo cả hai LDN 2005 và 2014, sổ đăng ký thành viên ghi nhận quyền sở hữ phần vốn góp của thành viên.Về mặt lý thuyết, thành viên góp thêm vốn và nhận chuyển nhượng có tư cách thành viên và có mọi quyền của thành viên đối với phần vốn góp thêm hoặc phần vốn góp được chuyển nhượng kể từ thời điểm được ghi tên vào sổ đăng ký thành viên. Vậy sổ thành viên là bằng chứng rõ ràng thể hiện quyền sở hữu trong CTTNHH.
Tuy nhiên, LDN 2015 còn quy định tên của thành viên phải được ghi nhận trong giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Nhưng lại không làm rõ giá trị pháp lý của việc tên thành viên được ghi nhận trong giấy chứng nhận. Nghĩa là chỉ đơn giản là xác nhận thông báo thay đổi thành viên của CTTNHH hay có giá trị là chấp nhận thay đổi đó. Có quan điểm cho rằng, dựa trên thực tế thị trường tại thời điểm LDN 2005 còn có hiệu lực và thời điểm hiện nay, thì GCN đăng ký doanh nghiệp đóng vai trò như văn bản chấp nhận việc góp vốn hoặc chuyển nhượng. Vậy tư cách thành viên cũng có thể xác định thông qua giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
Khác với CTTHH, LDN 2014 không yêu cầu tên của cổ đông được ghi nhận trong giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.Do vậy, sổ đăng ký cổ đông là bằng chứng cuối cùng và rõ ràng thể hiện quyền sở hữu trong CTCP.Tuy nhiên, đối với công ty CP không phải là công ty đại chúng, sổ đăng ký cổ đông được giữ lại CTCP và việc ghi nhận cổ đông vào sổ đăng ký cổ đông có thể tiến hành ngay tại thời điểm thanh toán đầy đủ tiền mua cổ phần. Đối với ông ty CP là công ty đại chúng sổ đăng ký cổ đông thường được giữ tại TTLKCK nên thời điểm thanh toán và thời điểm ghi nhận tên vào sổ là hai thời điểm khác nhau. Vì vậy, cũng cần phải quan tâm đến vấn đề này để xác định được thời điểm nào mới chính thức trở thành thành viên công ty.