Trường hợp đi làm dâu/ ở rể thì khi ly hôn sẽ chia tài sản như thế nào? Có bắt buộc phải chia đôi tài sản không? Hãy cùng tìm hiểu qua bài viết sau đây.
(1) Làm dâu/ ở rể thì chia tài sản khi ly hôn như thế nào?
Căn cứ Điều 61 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có quy định khi chia tài sản trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình thì sẽ có 02 trường hợp như sau:
Trường hợp 01: Không xác định được tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình: Được chia một phần trong khối tài sản chung của gia đình căn cứ vào công sức đóng góp của vợ chồng vào việc tạo lập, duy trì, phát triển khối tài sản chung cũng như vào đời sống chung của gia đình.
Việc chia một phần trong khối tài sản chung tại đây sẽ do vợ chồng thỏa thuận với gia đình. Trường hợp không tự thỏa thuận được thì có thể yêu cầu Tòa án giải quyết.
Trường hợp 02: Xác định được tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình: Khi vợ chồng sống chung với gia đình mà tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình mà có thể xác định được theo phần thì khi ly hôn, phần tài sản của vợ chồng sẽ được trích ra từ khối tài sản chung đó để chia theo quy định tại Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014.
Theo đó, hiện nay, đối với trường hợp làm dâu/ ở rể khi ly hôn thì sẽ tùy thuộc vào việc có xác định được tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình hay không để phân chia tài sản.
(2) Có buộc phải chia đôi tài sản chung của vợ chồng không?
Căn cứ Điều 59 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 được hướng dẫn bởi Thông tư liên tịch 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP có quy định trường hợp vợ chồng không thỏa thuận được (hoặc có thỏa thuận nhưng thỏa thuận đó không đầy đủ, rõ ràng hoặc thỏa thuận bị vô hiệu,..) và một trong hai hoặc cả hai bên có yêu cầu thì tài sản chung sẽ được Tòa án giải quyết theo các nguyên tắc như sau:
- Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố bao gồm:
+ Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng: Có thể kể đến như tình trạng sức khỏe, khả năng tạo ra thu nhập,.. Căn cứ vào tình hình thực tế, bên nào khó khăn hơn sau khi ly hôn sẽ được chia nhiều hơn.
+ Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung: Bên có công sức nhiều hơn thì được chia nhiều hơn.
Tuy nhiên, tại đây cũng cần lưu ý, trường hợp vợ hoặc chồng ở nhà làm nội trợ thì vẫn được tính là lao động có thu nhập tương đương với người đi làm
+ Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập.
+ Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
Ngoài ra, tài sản chung của vợ chồng có thể được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị. Bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.
Đặc biệt, khi phân chia tài sản chung thì Tòa án sẽ xem xét đến quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động, tài sản để tự nuôi mình.
Từ dẫn chiếu những quy định nêu trên, có thể thấy, ngoài việc chia đôi ra thì tài sản chung của vợ chồng còn có thể được phân chia dựa theo các yếu tố đã nêu, tức là tùy theo từng trường hợp khác nhau mà tài sản chung của vợ chồng có thể được chia với tỷ lệ 40:60, 45:55, 70:30,.. chứ không phải chỉ chia đôi (50:50).