Trường hợp này phải căn cứ cụ thể vào đối tượng cam kết là đối tượng nào thì mới có thể xác định được hành vi đó có vi phạm hay không. Nếu chỉ đơn thuần là vi phạm cam kết nhưng hành vi đó pháp luật không quy định chế tài xử lý thì cũng không thể xử phạt.
Vì dụ 1: Trong dịp tết Nguyên Đán cơ quan nhà nước tiến hành ký cam kết với các hộ gia đình để các hộ gia đình cam kết không đốt pháo hoa (các loại pháo nổ) nhưng rất nhiều hộ gia đình vẫn không thực hiện cam kết mà tự ý đốt các loại pháo nổ. Hành vi này vi phạm cam kết và hành vi này cũng có quy định xử phạt tại tại điểm i khoản 3 Điều 11 Nghị định 144/2021/NĐ-CP và khoản 7 Điều 11 Nghị định 144/2021/NĐ-CP.
Do đó, những người không thực hiện cam kết và có hành vi vi phạm sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính.
Ví dụ 2: Để bảo vệ môi trường một số địa phương đã tiến hành ký cam kết với các hộ gia đình về việc hạn chế sử dụng bao ni-lông. Tuy nhiên, rất nhiều hộ gia đình sau khi ký cam kết vẫn sử dụng bao ni-lông thường xuyên. Việc này vi phạm cam kết, nhưng về mặt quy định xử phạt thì lại không có chế tài nào xử lý đối với hành vi sử dụng túi ni-lông. Do đó, không thể xử lý đối với những hộ vi phạm cam kết, trừ khi trong nội dung cam kết có quy định hình thức xử lý khi không thực hiện cam kết.
=>> Như vậy, có thể thấy, việc xác định có thể xử lý đối với việc không thực hiện cam kết hay không còn phải tuỳ vào đối tượng cam kết là đối tượng nào hoặc phải căn cứ vào nội dung của cam kết để xem trong nội dung cam kết có quy định trách nhiệm khi không hoàn thành cam kết hay không.