1. Phân tích và tóm tắt hành
vi.
+ A đám cưới với B (chưa đăng kí kết hôn). Năm 2000, con gái A và
B 14 tuổi→ A và B đám cưới ở móc thời gian tối thiểu có thể là vào năm 1986.
Căn cứ vào Nghị quyết số 35/2000/QH10
trường hợp này đuợc quy định tại điểm a khoản 3 trường hợp quan hệ vợ chồng
được xác lập trước ngày 03/01/1987, ngày
luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực thì được khuyến khích đi đăng kí
kết hôn; theo đó thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP thì quan
hệ vợ chồng của họ đã xác lập từ ngày đám cưới chung sống với nhau đến nay.
+ Do muốn có con trai nối dòng, bố mẹ của A đã buộc A phải dứt
tình với B để cưới vợ khác, chỉ vì sức khỏe của B không cho phép chị tiếp tục
sinh con.
+ Ông bà (ba mẹ A) đã được nhắc nhở nhiều lần và đã bị xử phạt
vi phạm hành chính. Nhưng vẫn thường xuyên mắng chưởi thậm tệ chị B, khi chị
không đồng ý chấp nhận quyết định của ông bà.
+ Do quá đau buồn B đã tự tử và rất may được hàng xóm phát hiện
kịp thời .
+ A tuy buồn nhưng cũng chung sống với C như vợ chồng theo lời
ba mẹ. Sự việc này cũng được chính quyền địa phương nhắc nhở và ra quyết định
xử phạt nhưng việc A chung sống với C vẫn được tiếp diễn.
2. Xem xét dấu hiệu pháp
lý
+ Đối với ba mẹ A: với
những gì vừa nêu ở trên, đối chiếu với BLHS 1999, xét thấy những hành vi đó đã
phạm đến chế độ hôn nhân và gia đình. Có những hành vi mà điều luật cần kiểm
tra là Điều 146, với tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân, tự nguyện tiến
bộ.
Về mặt khách thể: đã xâm phạm nguyên tắc hôn nhân tự nguyện tiến bộ của luật hôn
nhân và gia đình. Đối tượng của tội phạm này là hành vi của người bị cưỡng ép
hoặc người bị cản trở kết hôn.
Về mặt khách quan: tội phạm này có một trong hai hành vi là cưỡng ép kết hôn hoặc
cản trở hôn nhân. Tội phạm biểu hiện qua các thủ đoạn trong đó có như: hành hạ,
ngược đãi đối xử tàn tệ với người lệ thuộc mình, gây đau khổ về tinh thần kéo
dài,thường xuyên chữi mắng, xỉ vả, làm nhục, đuổi khỏi nhà,…để nhằm mục đích
cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện. Người nào thực hiện những
hành vi trên mà đã bị xử phạt vi phạm hành chính mà vẫn vi phạm, thì bị coi là
tội phạm và bị xử lý hình sự. Từ những phân tích trên, xét thấy ông bà thường xuyên mắng chưởi thậm tệ chị B, trước và sau
khi bị chính quyền địa phương xử phạt hành chính, điều này đã thõa về mặt khách
quan của tội phạm này.
Về
mặt chủ quan: Như đã phân tích từ
mặt khách quan, rõ ràng tất cả hành vi mà ông bà gây ra là có mục đích cản trở
hôn nhân tự nguyện tiến bộ. Đây là lỗi cố ý trực tiếp.
Về
mặt chủ thể: bất kì ai có NLTNHS
theo luật định.Do đây là tội phạm ít nghiêm trọng nên chỉ truy cứu TNHS từ đủ
16 tuổi trở lên. Và thông thường chủ thể là người có quyền nhất định đối với
người kết hôn. Xét thấy ông bà đã hoàn toàn thõa mãn về mặt chủ thể.
+ Đối với A và chị C: việc
chung sống như vợ chồng với C, khi anh A vẫn còn hôn thú với chị B, xét thấy
những hành vi đó đã xâm phạm đến chế độ hôn nhân và gia đình, điều luật cần kiểm tra là Điều 147,tội vi phạm chế độ
hôn nhân một vợ, một chồng BLHS 1999.
Về mặt khách thể: hành vi phạm tội xâm phạm đến chế độ
một vợ một chồng, một trong những nguyên tắc cơ bản của luật hôn nhân và gia
đình là nguyên tắc một vợ, một chồng. Đối tượng của tội phạm này chính là hành
vi của người phạm tội, tác động đến hành vi của mình, khiến cho hành vi của
mình làm trái nguyên tắc của Luật hôn nhân và gia đình.
Về mặt khách quan: người phạm tội có các hành vi sau:
Đang có vợ hoặc có chồng
mà có hành vi kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác. Như phân tích ở trên, thì A là người đang
có vợ (hôn nhân thực tế được pháp luật
công nhận). Như vậy việc chung sống như vợ chồng với C của A, khi B vẫn
còn hôn thú với nhau (chưa ly hôn, B vẫn còn sống và ở tại nhà A) đã phù hợp
với hành vi trên.
Người chưa có vợ hoặc chưa
có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là
đang có chồng, có vợ.
Đối chiếu thực tế, xét thấy C là người
chưa có chồng, trước đó quyết định chung sống như vợ chồng với A, chính quyền
địa phương đã xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này. Nhưng sau đó, C vẫn
tiếp tục chung sống như vợ chồng với A, điều này chứng tỏ C ý thức rõ được hành
vi của mình, chấp nhận chung sống nhưng
vợ chồng với người đã có vợ.
Tội phạm hoàn thành khi người phạm tội thực hiện các hành vi trên gây hậui quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành
vi này mà còn vi phạm. Đối chiếu hậu quả thực tế trên là B quá đau buồn đã tự
tử và rất may được hàng xóm phát hiện kịp thời, sự việc phần nào đã gây dư luận
xấu, ảnh hưởng không tốt đến đời sống văn hóa, xã hội… Như vậy tội phạm đã hoàn
thành vì đã thõa mãn không chỉ một mà cả hai yếu tố trên.
Về mặt chủ quan: A tuy buồn nhưng cũng chung sống với C
như vợ chồng theo lời ba mẹ. Sự việc này cũng được chính quyền địa phương nhắc
nhở và ra quyết định xử phạt nhưng việc A chung sống với C vẫn được tiếp diễn.
Xét thấy, A có lỗi cố ý gián tiếp, C cố
ý trực tiếp.
Về mặt chủ thể: bất kì ai có NLTNHS theo luật định. Do đặc thù của
tội phạm này, thông thường đòi hỏi phải là có người có vợ, có chồng. Vì là tội
ít nghiêm trọng nên chủ thể phải là người từ đủ 16 tuổi trở lên. Xét thấy. A và
C đã thõa mãn về mặt chủ thể.
Kết luận:
Đối với ông bà (ba mẹ A): phải chịu TNHS về tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân, tự nguyện
tiến bộ tại Điều 146.
Đối với A và C: phải chịu TNHS
về tội vi
phạm chế độmột vợ một chồng theo khoản 1 Điều 147.
Cập nhật bởi Mai_Y_Nguyen vào lúc 05/09/2009 18:12:50