Khó khăn, vướng mắc trong hoạt động của Kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự

Chủ đề   RSS   
  • #555743 26/08/2020

    lamkylaw
    Top 100
    Lớp 10

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:31/10/2018
    Tổng số bài viết (660)
    Số điểm: 14232
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 612 lần


    Khó khăn, vướng mắc trong hoạt động của Kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự

     

    Sau gần 4 năm thi hành, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã khắc phục những tồn tại của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011, góp phần quan trọng trong việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Tuy nhiên, qua thực tiễn công tác kiểm sát thấy vẫn còn có một số khó khăn, vướng mắc...

    Khó khăn

    Về quy định thực hiện quyền yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ của Tòa án, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (sau đây gọi tắt là BLTTDS năm 2015) quy định Viện kiểm sát có quyền thực hiện “quyền yêu cầu” nhưng không quy định trách nhiệm của Tòa án trong việc thực hiện yêu cầu của Viện kiểm sát.

    Tại khoản 2 Điều 22 Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 31/8/2016 của VKSND tối cao và Tòa án nhân dân tối cao đã quy định trách nhiệm của Tòa án khi thực hiện quyền yêu cầu xác minh, thu thập chứng cứ của Viện kiểm sát như sau: “Trường hợp việc xác minh, thu thập chứng cứ theo yêu cầu của Kiểm sát viên là không thể thực hiện được hoặc Tòa án xét thấy không cần thiết thì chậm nhất là đến ngày hết thời hạn mở phiên tòa, phiên họp theo quyết định của Tòa án, Tòa án thông báo cho Kiểm sát viên bằng văn bản và nêu rõ lý do”.

    Tuy nhiên, trong thực tiễn, một số yêu cầu của Viện kiểm sát không được thực hiện hoặc thực hiện không triệt để nhưng Tòa án cũng không có văn bản phản hồi ý kiến, lý do của việc không thực hiện yêu cầu của Viện kiểm sát, dẫn đến Kiểm sát viên bị động trong quá trình nghiên cứu hồ sơ để đề xuất hướng giải quyết, báo cáo án với Lãnh đạo, tham gia phiên tòa.

    Về quy định cung cấp tài liệu, chứng cứ của cơ quan, tổ chức. Theo quy định tại Điều 7, Điều 106 BLTTDS năm 2015 thì cơ quan, tổ chức có trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu, chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ, trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do.

    Trường hợp cơ quan, tổ chức không thực hiện yêu cầu của Tòa án mà không có lý do chính đáng thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, trong một số vụ án tranh chấp dân sự, các cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu chứng cứ không kịp thời hoặc không có công văn phúc đáp, nhất là các cơ quan quản lý nhà nước về đất đai, gây khó khăn cho công tác thu thập chứng cứ, ảnh hưởng đến chất lượng, tiến độ giải quyết vụ án.

    Trong khi đó, trên thực tế, Tòa án không kiên quyết áp dụng khoản 3 Điều 106 của BLTTDS năm 2015 để kiến nghị xử lý đối với hành vi vi phạm trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ của cơ quan, tổ chức mà lại ra Quyết định tạm định chỉ giải quyết vụ án với lý do chờ ý kiến trả lời của cơ quan, tổ chức đang lưu giữ tài liệu, chứng cứ. Do đó, có một số vụ án tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất, Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án kéo dài mà không ra quyết định tiếp tục giải quyết vụ án vì cơ quan, tổ chức chưa cung cấp tài liệu, chứng cứ. Những vi phạm này hàng năm Viện kiểm sát Nghệ An đã tổng hợp vi phạm kiến nghị đồng chí Chủ tịch UBND tỉnh nhưng chưa được khắc phục triệt để.

    Những vướng mắc cần tháo gỡ

    Về thời hạn nghiên cứu hồ sơ vụ án dân sự: Theo quy định tại khoản 2 Điều 220 BLTTDS thì “…Trường hợp Viện kiểm sát tham gia phiên tòa theo quy định tại khoản 2 Điều 21 của Bộ luật này thì Tòa án phải gửi hồ sơ vụ án cùng quyết định đưa vụ án ra xét xử cho Viện kiểm sát cùng cấp; trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Viện kiểm sát phải nghiên cứu và trả lại hồ sơ cho Tòa án”. Trong thời gian này Kiểm sát viên thực hiện rất nhiều thủ tục như lập, trích cứu hồ sơ; nghiên cứu hồ sơ và ban hành văn bản yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ (nếu xét thấy việc thu thập chứng cứ Tòa án chưa đầy đủ); báo cáo Lãnh đạo đề xuất quan điểm giải quyết vụ án; dự kiến nội dung hỏi tại phiên tòa; dự thảo bài phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa nên đối với những vụ án phức tạp thì khoảng thời gian 15 ngày là không thể đủ để Kiểm sát viên có thể hoàn thành việc nghiên cứu hồ sơ vụ án một cách toàn diện và thận trọng.

    Mặt khác, theo quy định BLTTDS năm 2015, sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì Tòa án mới chuyển hồ sơ vụ việc dân sự cho Viện kiểm sát nghiên cứu, quá trình nghiên cứu Kiểm sát viên có quyền yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ. Mặc dù, đây là quyền hạn của Kiểm sát viên mới được quy định BLTTDS năm 2015 nhưng việc thực hiện trên thực tế không mang tính khả thi, vì khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát thì thời điểm đó gần sát ngày Tòa án mở phiên tòa, nếu Viện kiểm sát có ban hành văn bản yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ thì cũng không đủ thời gian để Thẩm phán thực hiện yêu cầu của Kiểm sát viên.

    Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Trong vụ án tranh chấp dân sự, quá trình giải quyết vụ án có liên quan đến quyết định cá biệt, ví dụ vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất, UBND huyện đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất đang tranh chấp.

    Quá trình giải quyết sơ thẩm, Tòa án xác định quyết định việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của UBND huyện là không trái pháp luật và giải quyết vụ án theo thẩm quyền. Sau khi Tòa án tiến hành xét xử sơ thẩm, đương sự kháng cáo quyết định của bản án sơ thẩm. Tại phiên tòa phúc thẩm, Tòa án xác định quyết định hành chính cá biệt nêu trên của UBND huyện là trái pháp luật. Trường hợp này hiện nay đang có hai quan điểm:

    Quan điểm thứ nhất:

    Theo quy định tại Điều 34 BLTTDS năm 2015, khoản 4 Điều 32 Luật tố tụng hành chính năm 2015 thì thẩm quyền hủy quyết định hành chính cá biệt của UBND cấp huyện là Tòa án cấp tỉnh và khi giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án có quyền hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự mà Tòa án có nhiệm vụ giải quyết mà không cần phải có yêu cầu của đương sự mới giải quyết. Vì vậy, Tòa án cấp tỉnh đưa UBND huyện tham gia tố tụng, tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

    Quan điểm thứ hai:

    Điều 270 BLTTDS năm 2015 quy định: “Xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp phúc thẩm trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị”.

    Theo quy định này, Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án, không quyết định xem xét những nội dung mà bản án, quyết định không bị kháng cáo, kháng nghị. Mặt khác, để đảm bảo quyền kháng cáo của đương sự theo quy định tại khoản 22 Điều 70, Điều 271 BLTTDS năm 2015 thì trong trường hợp này Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và giải quyết sơ thẩm lại theo thẩm quyền.

    Về thẩm quyền kiến nghị lần 2: Khoản 5,6 Điều 194 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định:

    “5. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định trả lời khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện của Thẩm phán, người khởi kiện có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với Chánh án Tòa án trên một cấp trực tiếp xem xét, giải quyết

    6. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện, Chánh án Tòa án trên một cấp trực tiếp phải ra một trong các quyết định sau đây:

    a) Giữ nguyên việc trả lại đơn khởi kiện;

    b) Yêu cầu Tòa án cấp sơ thẩm nhận lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo để tiến hành việc thụ lý vụ án.

    Quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Chánh án Tòa án trên một cấp trực tiếp có hiệu lực thi hành và được gửi ngay cho người khởi kiện, Viện kiểm sát cùng cấp, Viện kiểm sát đã kiến nghị và Tòa án đã ra quyết định trả lại đơn khởi kiện”.

    Trường hợp Viện kiểm sát cấp huyện ban hành kiến nghị đối với thông báo trả lại đơn khởi kiện của Tòa án cùng cấp: Sau khi Viện kiểm sát ban hành kiến nghị, Tòa án cấp huyện ban hành quyết định giải quyết việc kiến nghị của Viện kiểm sát. Nếu Viện kiểm sát cấp huyện không đồng ý với kết quả giải quyết kiến nghị của Tòa án cùng cấp thì Viện kiểm sát cấp nào tiếp tục kiến nghị (Viện kiểm sát cấp huyện tiếp tục kiến nghị hay Viện kiểm sát cấp tỉnh kiến nghị).

    Theo quy định tại khoản 5 Điều 194 Bộ luật tố tụng dân sự nêu trên chỉ quy định chung chung là Viện kiểm sát kiến nghị chứ không quy định rõ kiến nghị lần 2 thì Viện kiểm sát cấp nào kháng nghị, còn tại khoản 6 Điều 194 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định thẩm quyền kiến nghị lần 2 được hiểu là Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát cấp trên.

    Theo mẫu kiến nghị số 20/DS (DP) ban hành kèm theo Quyết định số 204/QĐ-VKSTC ngày 1/6/2017 của VKSND tối cao về kiến nghị thông báo trả lại đơn khởi kiện thì thẩm quyền kiến nghị lần 2 được hiểu là Viện kiểm sát cấp trên.

    Về quy định nghĩa vụ chịu chi phí tố tụng khác như chi phí xem xét thẩm định tại chỗ; chi phí định giá tài sản: Theo quy định tại khoản 1 Điều 165 BLTTDS năm 2015 thì đương sự phải chịu chi phí định giá tài sản nếu yêu cầu khởi kiện của họ không được Tòa án chấp nhận. Theo đó, khoản 1 Điều 165 BLTTDS năm 2015 chỉ quy định trong trường hợp Tòa án chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của đương sự, còn đối với trường hợp Tòa án chỉ chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của đương sự thì chưa có quy định.

    Đối với các vụ án dân sự đương sự yêu cầu xem xét tại chỗ, định giá tài sản thì đương sự phải chịu chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, chi phí định giá tài sản theo quy định tại các Điều 157, 166 BLTTDS năm 2015 là phù hợp. Tuy nhiên, trong thực tế một số vụ án, trong quá trình giải quyết vụ án ở cấp sơ thẩm Tòa án xem xét thẩm định tại chỗ, Hội đồng định giá tài sản không thực hiện đúng quy định pháp luật, Tòa án cấp phúc thẩm không thể căn cứ Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ và Biên bản định giá tài sản để giải quyết vụ án được nên phải tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản lại. Mặc dù BLTTDS năm 2015 không quy định rõ về nội dung này nhưng đương sự phải chịu chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản, đây là một điều bất hợp lý.

    Về sự có mặt của Kiểm sát viên tại phiên tòa: Tại khoản 2 Điều 21 BLTTDS năm 2015 quy định: “Viện kiểm sát tham gia các phiên họp sơ thẩm đối với các việc dân sự; phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 4 của Bộ luật này”. Tuy nhiên, tại khoản 1 Điều 232 BLTTDS năm 2015 quy định về việc có mặt của Kiểm sát viên: “Kiểm sát viên được Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phân công có nhiệm vụ tham gia phiên tòa; nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử, không hoãn phiên tòa”.

    Mặt khác, theo quy định tại Điều 233 BLTTDS năm 2015, thì các trường hợp luật quy định hoãn phiên tòa lại không có liệt kê trường hợp vắng Kiểm sát viên.

    Quy định như trên là bất cập cho Kiểm sát viên, bởi vì Kiểm sát viên sẽ không kiểm sát được diễn biến tại phiên tòa để có quan điểm về tố tụng cũng như nội dung vụ án. Bởi thực tế khối lượng công việc tại địa phương nhiều nên trong một số trường hợp một Kiểm sát viên có hai hoặc nhiều vụ án cùng lên lịch xét xử cùng một thời điểm hoặc cũng có trường hợp do tham gia xét xử vụ án khác còn kéo dài thời gian nghị án mà không có Kiểm sát viên dự khuyết hoặc đến ngày xét xử Kiểm sát viên được phân công ốm hoặc trên đường tham gia giao thông gặp trở ngại nên việc không tham gia phiên tòa là sự việc bất khả kháng.

    Nếu trong trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt dù có hay không có lý do chính đáng Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử mà không hoãn phiên tòa, điều này ảnh hưởng đến việc phát hiện những vi phạm, sai sót của Hội đồng xét xử và của những người tham gia tố tụng khác, gây khó khăn cho công tác kiến nghị, kháng nghị của Viện kiểm sát. Đồng thời, việc quy định về trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt tại phiên tòa, mà Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử bình thường sẽ ảnh hưởng đến vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự.

    Việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của Tòa án và Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự là biểu hiện của mối quan hệ phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền tư pháp theo quy định của Hiến pháp. Sự có mặt của kiểm sát viên tại phiên tòa có ý nghĩa vô cùng quan trọng, vừa thực hiện chức năng, nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật, vừa với tư cách của người tiến hành tố tụng, nếu Kiểm sát viên vắng mặt tại phiên tòa thì cần phải hoãn phiên tòa như trường hợp vắng mặt thành viên của Hội đồng xét xử.

    Nếu trong vụ án dân sự, đương sự không nắm rõ các quy định pháp luật tố tụng thì rất khó để đương sự trong vụ án phát hiện các sai sót trong hoạt động tố tụng để yêu cầu Tòa án thực hiện đúng nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của mình. Mặt khác, tồn tại song song bên vấn đề không hoãn phiên tòa khi Kiểm sát viên vắng mặt tại phiên tòa thì BLTTDS năm 2015 cũng chưa quy định về cách thức xử lý trong trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt tại phiên tòa nhưng có Kiểm sát viên dự khuyết thay thế tham dự phiên tòa ngay từ đầu.

    Theo khoản 2 Điều 232 BLTTDS năm 2015 quy định: “Trường hợp Kiểm sát viên bị thay đổi tại phiên tòa hoặc không thể tiếp tục tham gia phiên tòa xét xử, nhưng có Kiểm sát viên dự khuyết thì người này được tham gia phiên tòa xét xử tiếp vụ án nếu họ có mặt tại phiên tòa từ đầu”. Tuy nhiên, quy định này lại chưa bao hàm được trường hợp “Kiểm sát viên vắng mặt tại phiên tòa” nhưng có Kiểm sát viên dự khuyết tham dự tham dự phiên tòa ngay từ đầu có thể được thay thế.

    Cần phải khẳng định rằng, dưới góc độ lý luận và thực tiễn thì việc “Kiểm sát viên bị thay đổi tại phiên tòa”, “Kiểm sát viên không thể tiếp tục tham gia phiên tòa” và “Kiểm sát viên vắng mặt tại phiên tòa” là hoàn toàn khác nhau. Đối với trường hợp “Kiểm sát viên bị thay đổi tại phiên tòa” được tiến hành khi có các căn cứ theo quy định tại Điều 52, Điều 60 BLTTDS năm 2015 nhằm bảo đảm tính vô tư, khách quan trong hoạt động tố tụng.

    Đối với trường hợp “Kiểm sát viên không thể tiếp tục tham gia phiên tòa” mặc dù chưa có hướng dẫn và giải thích rõ nhưng quy định này có thể được hiểu là Kiểm sát viên đó trong khi đang tham gia phiên tòa nhưng vì lý do sức khỏe… khiến cho Kiểm sát viên không thể tiếp tục tham dự phiên tòa.

    Trong khi đó, đối với trường hợp “Kiểm sát viên vắng mặt tại phiên tòa” có thể được hiểu là Kiểm sát viên đó đã vắng mặt ngay từ lúc phiên tòa bắt đầu hoặc vắng mặt ngay lúc phiên tòa bắt đầu. Do đó, pháp luật hiện nay không có quy định về cách thức xử lý trong trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt tại phiên tòa nhưng có Kiểm sát viên dự khuyết thay thế tham dự phiên tòa ngay từ đầu là chưa dự liệu hết được các trường hợp.

    Trong trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, nội dung ảnh hưởng đến quyền lợi của người thứ 3 hoặc gây khó khăn cho công tác thi hành án nhưng Viện kiểm sát không có kháng nghị, đương sự không kháng cáo thì Viện kiểm sát có báo cáo kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm hay phải chờ đơn khiếu nại của đương sự (theo quy định tại khoản 3 Điều 328 BLTTDS năm 2015 thì đơn đề nghị kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm được gửi cho người có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm quy định tại Điều 331 BLTTDS năm 2015 gồm: Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao, Chánh án TAND cấp cao, Viện trưởng VKSND cấp cao. Như vậy, BLTTDS không quy định đương sự phải gửi đơn đề nghị kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm cho Viện kiểm sát cấp tỉnh)?

    Trần Thị Tâm - Phòng 9 VKS Nghệ An

    Theo baovephapluat.vn

     
    4718 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận