Trong thời điểm hiện nay, chứng cứ không còn chỉ được thể hiện dưới dạng vật chứng hay lời khai mà nó còn được thể hiện dưới dạng thông điệp dữ liệu trên môi trường điện tử.
Nhằm đảm bảo tính công bằng, khách quan qua đó hỗ trợ quá trình tố tụng dân sự, thì thông dữ liệu điện tử có được xem là chứng cứ hợp pháp?
1. Thông điệp dữ liệu điện tử là gì?
Căn cứ khoản 12 Điều 4 Luật Giao dịch điện tử 2005 quy định thông điệp dữ liệu là thông tin được tạo ra, được gửi đi, được nhận và được lưu trữ bằng phương tiện điện tử.
Thông điệp dữ liệu được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác.
Đồng thời Điều 11 Luật Giao dịch điện tử 2005 cho rằng thông tin trong thông điệp dữ liệu không bị phủ nhận giá trị pháp lý chỉ vì thông tin đó được thể hiện dưới dạng thông điệp dữ liệu.
2. Nguồn chứng cứ được lấy từ đâu?
Cơ quan tiến hành tố tụng sẽ xem xét chứng cứ thu thập được hoặc được cung cấp phải phù hợp với nguồn chứng cứ được quy định tại Điều 94 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 bao gồm:
- Tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử.
- Vật chứng.
- Lời khai của đương sự.
- Lời khai của người làm chứng.
- Kết luận giám định.
- Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ.
- Kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản.
- Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập.
- Văn bản công chứng, chứng thực.
- Các nguồn khác mà pháp luật có quy định.
Qua quy định trên cho thấy nguồn chứng cứ mà cơ quan tiến hành tố tụng cũng lấy từ tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử để hỗ trợ quá trình tố tụng.
3. Giá trị của thông điệp dữ liệu làm chứng cứ
Trường hợp sử dụng thông điệp dữ liệu làm chứng cứ trong tố tụng sẽ không bị phủ nhận giá trị dùng làm chứng cứ chỉ vì đó là một thông điệp dữ liệu.
Giá trị chứng cứ của thông điệp dữ liệu được xác định căn cứ vào độ tin cậy của cách thức khởi tạo, lưu trữ hoặc truyền gửi thông điệp dữ liệu; cách thức bảo đảm và duy trì tính toàn vẹn của thông điệp dữ liệu; cách thức xác định người khởi tạo và các yếu tố phù hợp khác.
Đồng thời, tại khoản 3 Điều 95 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 có nói thông điệp dữ liệu điện tử được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử, qua đó cơ quan tố tụng có chuyên môn sẽ giám định thông điệp dữ liệu để xem xét làm chứng cứ.
Như vậy, thông điệp dữ liệu vẫn được xem là chứng cứ hợp pháp và giá trị được lưu trữ trong dữ liệu điện tử sẽ không bị phủ nhận giá trị làm chứng cứ trong quá trình điều tra, xét xử tố tụng.