Tôi đưa ra một ví dụ thực tế như sau :
A làm hợp đồng ủy quyền cho B tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện cho Nguyên đơn trong vụ án Tranh chấp QSDĐ tại TAND Quận X. Nửa chừng, A muốn chấm dứt hợp đồng ủy quyền với B thì chỉ cần làm một văn bản thông báo đồng thời gởi cho 3 nơi là B, TAND Quận X và Cơ quan đã công chứng, chứng thực Hợp đồng ủy quyền. Tiện nhất là gởi bưu điện bảo đảm, chuyển phát nhanh và có báo phát cho B và Cơ quan công chứng, chứng thực. Riêng Tòa thì A trực tiếp tới nộp và lấy giấy biên nhận. Từ đó chắc chắn tòa không còn công nhận tư cách đại diện của B và sẽ đưa anh ta ra ngoài vụ án.
Có hai giả thiết :
1- Hợp đồng ủy quyền không có thù lao :
Giấy báo phát sẽ là chứng cứ chứng minh việc A đã có thông báo mình đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng ủy quyền với B, thời gian thông báo cũng hợp lý bởi A gởi thông báo cho B đồng thời với gởi cho Tòa và cơ quan công chứng, chứng thực, nghĩa là gần như cùng lúc, các bên đều biết việc đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng ủy quyền này. Mặt khác, bởi hợp đồng ủy quyền không có thù lao, nên căn cứ khoản 1 điều 588 Bộ Luật dân sự thì A không phải bồi thường, dĩ nhiên B không có lý do gì để kiện thưa vất vả.
2- Hợp đồng ủy quyền có thù lao :
2.1- Nếu A có chứng cứ việc B không thực hiện đúng nội dung Hợp đồng thì đề nghị B cùng tới Cơ quan công chứng, chứng thực thỏa thuận xin hủy Hợp đồng ủy quyền với lý do B vi phạm. Mọi thủ tục và quyền lợi, nghĩa vụ của hai bên trong trường hợp này tuân thủ theo qui định tại điều 425 BLDS và các qui định khác. Trường hợp hai bên không thỏa thuận được việc hủy hợp đồng và cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm thì cả hai đều có quyền khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng theo thời hiệu qui định tại điều 427 BLDS.
2.2- Nếu A đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng ủy quyền thì phải trả thù lao cho B tương ứng với công việc mà B đã thực hiện và phải bồi thường thiệt hại cho B theo qui định tại khoản 1 điều 588 BLDS. Trường hợp B cho rằng A không trả thù lao và bồi thường thỏa đáng thì có quyền khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng theo thời hiệu qui định tại điều 427 BLDS
#ff0000;">Ghi chú : #00b050;">nếu có khởi kiện như trình bày ở phần 2.1 và 2.2 thì TAND quận X vẫn thừa nhận việc B không còn là người đại diện theo ủy quyền của A, vẫn bỏ anh ta ra ngoài khi giải quyết vụ án tranh chấp QSDĐ mà Tòa đang thụ lý giải quyết. Cập nhật bởi NguyensoaiD36 ngày 20/02/2011 12:41:23 AM
SỐNG LÀM VIỆC THEO HIẾN PHÁP VÀ PHÁP LUẬT