Chào bạn, cám ơn bạn đã gửi câu hỏi! Dựa vào những thông tin bạn cung cấp mình có thể tư vấn như sau.
Thứ nhất về vấn đề hiệu lực của hợp đồng, căn cứ theo điều 122 và 127 Bộ luật dân sự 2005, quy định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự và
Điều 122. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
b) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội;
c) Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện.
2. Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định.
Điều 127. Giao dịch dân sự vô hiệu
Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 122 của Bộ luật này thì vô hiệu.
Như vậy, trong trường hợp trên, giám đốc chi nhánh công ty N không được ủy quyền bởi người đại diện hợp pháp của công ty là vi phạm điều kiện người tham gia vào giao dịch không không có năng lực hành vi dân sự. Tức là trong trường hợp này, ông A không có thẩm quyền đại diện do cho pháp nhân – công ty N tham gia vào giao dịch dân sự. Theo điều 86 khoản 3 bộ luật này, chỉ có người đại diện theo pháp luật của pháp nhân và đại diện theo ủy quyền của pháp nhân mới được nhân danh pháp nhan trong quan hệ dân sự.
Điều 86. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân
[…]
3. Người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo uỷ quyền của pháp nhân nhân danh pháp nhân trong quan hệ dân sự.
[…]
Vì vậy hợp đồng trên không có hiệu lực.
Thứ hai, cũng từ những căn cứ trên, ông A không có thẩm quyền kí hợp đồng.
Thứ ba, người phải có trách nhiệm với công ty M ở đây chính là ông A. Căn cứ theo điều 145 Bộ luật dân sự 2005:
Điều 145. Hậu quả của giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện
1. Giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, trừ trường hợp người đại diện hoặc người được đại diện đồng ý. Người đã giao dịch với người không có quyền đại diện phải thông báo cho người được đại diện hoặc người đại diện của người đó để trả lời trong thời hạn ấn định; nếu hết thời hạn này mà không trả lời thì giao dịch đó không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, nhưng người không có quyền đại diện vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với mình, trừ trường hợp người đã giao dịch biết hoặc phải biết về việc không có quyền đại diện.
2. Người đã giao dịch với người không có quyền đại diện có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hoặc huỷ bỏ giao dịch dân sự đã xác lập và yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp người đó biết hoặc phải biết về việc không có quyền đại diện mà vẫn giao dịch.
Xét trong trường hợp của bạn, ông A không có quyền đại diện nhưng vẫn tiếp tục thực hiện giao dịch dân sự. Lúc này, người đã giao dịch có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng (tức công ty N) và yêu cầu ông A bồi thường thiệt hại.
Điều 137. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu
1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập.
2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường.
Như vậy, 2 bên sẽ khôi phục lại tình trạng ban đầu, trả lại những gì đã trao cho nhau.
Tuy nhiên trong luật dân sự, nguyên tắc thỏa thuận tự do ý chí rất được đề cao. Nó luôn là loại hình được ưu tiên hàng đầu khi giải quyết các tranh chấp. Trong trường hợp này 2 bên có thể thỏa thuận để có thể giải quyết vấn đề trên.