Trong thực tế hiện nay, xã hội đã và đang ngày một phát triển và bắt kịp nhưng xu hướng mới trên thế giới. Vậy nên suy nghĩ của người dân Việt Nam dần trở nên hiện đại hơn, trong đó có suy nghĩ về hôn nhân đồng giới.
Điều này không phải chủ đề gì quá xa lạ với người dân Việt Nam nữa vì rõ ràng khi đi ra đường, nhất là ở những thành phố lớn như thành phố Hồ Chí Minh thì những cặp yêu nhau đồng giới thoải mái thể hiện tình cảm dành cho nhau, nhìn vào là người khác sẽ biết ngay đây là một cặp đồng giới.
Vậy rồi trong các quy định của pháp luật thì quy định như thế nào về vấn đề này?
Căn cứ Luật Hôn nhân và gia đình 2014:
“Điều 8. Điều kiện kết hôn
…2. Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính.”
Căn cứ Luật Hôn nhân và Gia đình 2000:
Điều 10. Những trường hợp cấm kết hôn
Việc kết hôn bị cấm trong những trường hợp sau đây:
…5. Giữa những người cùng giới tính.
Xã hội phát triển và theo đó quy định của pháp luật cũng đã linh hoạt hơn. Thay vì theo luật HNGĐ 2000 thì cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính. Theo đó, những người cùng giới sẽ không được kết hôn với nhau. Nhưng tới luật HNGĐ 2014 thì đã có sự thay đổi đáng kể là kể từ 01/01/2015 thì Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính.
“Không thừa nhận” có nghĩa rằng pháp luật không cho phép người đồng giới đăng kí kết hôn tại các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hay được coi như vợ-chồng với các quyền và nghĩa vụ tương ứng.
Như vậy, theo quy định trên thì hôn nhân đồng tính không còn bị cấm. Người đồng tính có thể tổ chức hôn lễ, chung sống với nhau nhưng dưới con mắt pháp luật thì không được coi như vợ chồng và không thể đăng kí kết hôn với cơ quan nhà nước.