Bạn xem nội dung dưới này để làm nhé:
Khi xây dựng một văn bản pháp luật mới ở Việt Nam, các nhà làm luật thông thường không chỉ xác định khi nào văn bản mới này được áp dụng mà còn xác định khi nào pháp luật nước ngoài có thể được áp dụng đối với những tranh chấp trước toà án Việt Nam liên quan đến những vấn đề được đề cập trong luật mới. Đây là vấn đề giải quyết xung đột pháp luật trong tư pháp quốc tế. Ví dụ, theo Điều 104, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, "việc ly hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam được giải quyết theo quy định của luật này; Trong trường hợp bên là công dân Việt Nam không thường trú tại Việt Nam vào thời điểm yêu cầu ly hôn thì việc ly hôn được giải quyết theo pháp luật của nước nơi thường trú chung của vợ chồng; nếu họ không có nơi thường trú chung thì theo pháp luật Việt Nam; Việc giải quyết tài sản là bất động sản ở nước ngoài khi ly hôn tuân theo pháp luật của nước nơi có bất động sản đó". Vậy Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 không chỉ xác định khi nào pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam được áp dụng và còn xác định khi nào pháp luật nước ngoài liên quan đến hôn nhân và gia đình được toà án Việt Nam áp dụng.
Trong tư pháp quốc tế một số nước như Thuỵ Sĩ, giải quyết xung đột pháp luật về cạnh tranh đã được luật hoá. Ở Pháp, do không có văn bản cụ thể nên Toà án Tối cao tự thiết lập quy phạm xung đột cho các tranh chấp loại này. Nhưng các bản án của đó tương đối phức tạp, khó hiểu.
I - Hiện tượng xung đột pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường nước ngoài có thể xảy ra trước tòa án Việt Nam
Trước tòa án Việt Nam, xung đột pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường nước ngoài có thể xảy ra khi một bên trong tranh chấp là doanh nghiệp Việt Nam. Ví dụ, doanh nghiệp A Việt Nam và doanh nghiệp B Trung Quốc cùng cạnh tranh trên thị trường Lào. Để có thêm khách hàng trên thị trường Lào, doanh nghiệp A đã thực hiện một số hành vi cạnh tranh mà doanh nghiệp B cho là không lành mạnh. Nhằm được bồi thường những thiệt hại mà bên B cho là bên A gây ra do hành vi cạnh tranh trên, bên B khởi kiện bên A trước tòa án Việt Nam. Để giải quyết tranh chấp này, chúng ta cần biết pháp luật nước nào có thẩm quyền để xác đinh các hành vi cạnh tranh trên là cạnh tranh không lành mạnh, xác định mức độ thiệt hại và mức độ bồi thường thiệt hại có thẩm quyền điều chỉnh: pháp luật Việt Nam, pháp luật Trung Quốc hay pháp luật Lào? Giải quyết hiện tượng xung đột này là cần thiết vì pháp luật các nước điều chỉnh không giống nhau những hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Trước tòa án Việt Nam, xung đột pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường nước ngoài có thể xảy ra khi cả hai bên trong tranh chấp đều là doanh nghiệp Việt Nam. Ví dụ, doanh nghiệp A và doanh nghiệp B Việt Nam cùng cạnh tranh trên thị trường Mỹ. Để có thêm khách hàng trên thị trường Mỹ, doanh nghiệp A đã sử dụng một số biện pháp cạnh tranh mà doanh nghiệp B cho là không lành mạnh. Nhằm được bồi thường thiệt hại mà bên B cho là bên A gây ra do những hành vi cạnh tranh trên, bên B khởi kiện bên A trước Tòa án Việt Nam. Pháp luật nước nào có thẩm quyền điều chỉnh tranh chấp trên, pháp luật Mỹ hay pháp luật Việt Nam. Việc giải quyết xung đột pháp luật này là cần thiết vì mức độ bồi thường thiệt hại theo pháp luật Mỹ là tương đối cao, có thể gấp ba lần thiệt hai thực tế, trong khi đó mức độ bồi thường thiệt hại theo pháp luật Việt Nam có thể thấp hơn nhiều.
II - Giải quyết xung đột pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường nước ngoài có thể xảy ra trước tòa án Việt Nam
Tranh chấp về bồi thường thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra là một tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Do vậy chúng ta có thể sử dụng những quy phạm xung đột pháp luật có sẵn trong Bộ luật Dân sự Việt Nam về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Tuy nhiên theo tôi, những quy phạm này không phù hợp với vấn đề bồi thường thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra, và do đó chúng ta nên thiết lập một quy phạm xung đột mới. Để hiểu rõ thêm, chúng ta lần lượt nghiên cứu sự không phù hợp của các quy phạm xung đột pháp luật đã tồn tại trong Bộ luật Dân sự Việt Nam đối với hai ví dụ nêu trong phần I.
Khoản 3, Điều 835, Bộ luật Dân sự quy định: "Trong trường hợp hành vi gây thiệt hại xảy ra ở ngoài lãnh thổ nước CHXHCN Việt Nam mà người gây thiệt hại và người bị thiệt hại đều là công dân hoặc pháp nhân Việt Nam, thì áp dụng pháp luật CHXHCN Việt Nam". Nếu áp dụng quy phạm xung đột pháp luật này vào ví dụ thứ hai nêu trong phần I, chúng ta có giải pháp sau: Tranh chấp giữa bên A và bên B được điều chỉnh bởi pháp luật Việt Nam. Điều đó có nghĩa là pháp luật Việt Nam sẽ được dùng để xác định xem các hành vi cạnh tranh trên thi trường Mỹ có là hành vi cạnh tranh không lành mạnh không, và nếu có thì mức thiệt hại và mức bồi thường thiệt hại phải xác định theo pháp luật Việt Nam. Giải pháp xử lý xung đột pháp luật này theo tôi là không hợp lý, vì pháp luật cạnh tranh Việt Nam Nam được xây dựng theo màu sắc Việt Nam, chỉ phù hợp với thị trường Việt Nam và chỉ để điều chỉnh cạnh tranh trên thị trường Việt Nam. Nói một cách khác, quy phạm xung đột pháp luật của Điều 835 Bộ luật Dân sự là không phù hợp với vấn đề bồi thường thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra ở thị trường nước ngoài.
Khoản 1, Điều 835, Bộ luật Dân sự quy định: "Việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được xác định theo pháp luật của nước nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại hoặc nơi phát sinh hậu quả thực tế của hành vi gây thiệt hại". Đây là một quy phạm xung đột phức tạp bởi không làm rõ được ai có quyền lựa chọn luật áp dụng trong trường hợp này, tòa án, người bị thiệt hại hay người gây thiệt hại? Quy định này rõ ràng không thể xử lý thấu đáo được ví dụ thứ nhất trong phần I.
Sự phức tạp có thể tăng nên nếu chúng ta áp dụng quy phạm xung đột này vào vấn đề bồi thường thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra.
Thứ nhất, việc xác định nước nơi xảy ra hành vi cạnh tranh bị một bên coi là không lành mạnh đôi khi không đơn giản. Phát triển ví dụ thứ nhất trong phần I, chúng ta có thể gặp hoàn cảnh là bên A Việt Nam thực hiện hành vi cạnh tranh thông qua thông tin đại chúng Lào nhưng nội dung của các hành vi này được thiết lập và thực hiện tại Việt Nam (phim quảng cáo được dàn dựng và quay ở Việt Nam nhưng truyền tải ở Lào thông qua truyền hình Lào). Vậy nơi xảy ra hành vi mà bên B Trung Quốc coi là cạnh tranh không lành mạnh là Việt Nam hay Lào?
Thứ hai, việc xác định nơi phát sinh hậu quả thực tế của hành vi cạnh tranh bị một bên coi là không lành mạnh đôi khi cũng không đơn giản. Cũng trong ví dụ thư nhất ở phần I, hành vi cạnh tranh của bên A có thể làm giảm khách hàng của bên B trên thị trường Lào đồng thời làm giảm tổng thu nhập của bên B ở Trung Quốc, vì trụ sở của bên B là ở Trung Quốc. Vậy nơi phát sinh hậu quả thực tế của hành vi cạnh tranh bị bên B coi là không lành mạnh là ở Lào hay ở Trung Quốc?
Phần phân tích trên cho thấy những quy phạm xung đột tồn tại trong Bộ luật Dân sự Việt Nam không phù hợp với hiện tượng xung đột pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường nước ngoài. Mà vì vậy chúng ta nên thiết lập một quy phạm xung độ riêng biệt cho hiện tượng xung đột này, có thể diễn đạt như sau: Tranh chấp về hành vi cạnh tranh không lành mạnh ở ngoài lãnh thổ Việt Nam được điều chỉnh bởi pháp luật của nước mà thị trường bị ảnh hưởng do hành vi này. Trong ví dụ thứ nhất, thị trường Lào bị ảnh hưởng do hành vi cạnh tranh của bên A, vậy pháp luật Lào được chọn để xác định các hành vi này có là hành vi cạnh tranh không lành mạnh hay không. Nếu đó thực sự là hành vi cạnh tranh không lành mạnh thì mức thiệt hại và mức bồi thường thiệt hại là bao nhiêu cũng được điều chỉnh bởi pháp luật nước này. Tương tự, trong ví dụ thứ hai, thị trường Mỹ bị ảnh hưởng nên pháp luật cạnh tranh nước này được chọn để điều chỉnh tranh chấp giữa hai doanh nghiệp Việt Nam về xác định bản chất không lành mạnh của các hành vi cạnh tranh, mức độ thiệt hại và mức độ bồi thường thiệt hại.
( do.van_dai@caramail.com - Tin nhanh VN)