Phần I : Vài nét về hệ thống luật pháp Singapore
1. Lịch sử phát triển việc áp dụng luật pháp Anh tại Singapore
(1) Trước đây, do lịch sử phát hiện Quốc đảo này từ một người Anh, Ông Stamford Raffles vào năm 1819, lúc đó đảo Tân Gia Ba còn là một phần lãnh thổ của Đế chế Johore(một Bang của Malaysia ngày nay). Sau khi kiểm soát được hòn đảo này, Raffles đã buộc nhà cầm quyền Malay(Johore) phải nhượng bộ, ký hiệp ước(năm 1824) nhường toàn bộ chủ quyền đảo Tân Gia Ba cho người Anh quản lý.
Ngay khi nắm chủ quyền từ tay người Malay, các Toà án tại Singapore cũng được thiết lập theo Điều lệ tư pháp lần thứ 2(dưới đây gọi tắt là Điều lệ thứ 2) do Hoàng gia Anh quốc ban hành vào năm 1826. Mặc dầu tại Điều lệ trên, không có điều khoản nào nói rằng luật pháp của Anh được áp dụng tại các Toà án được lập tại Singapore, nhưng trên thực tế, điều lệ này được áp ụng rộng rãi tại Toà án Singapore.
Vì các lý do sau (1)Các Toà án Singapore được thành lập trên cơ sở các Toa án Anh quốc và nó có thẩm quyền như của Toà án Anh quốc. (2)Vào thời kỳ đó, hầu hết các luật sư, thẩm phán được đào tạo theo luật pháp Anh quốc, theo sách giáo khoa, án lệ Anh quổc trong quá trình đào tạo nên khi hành nghề (vào thời gian trước năm 1994, Hội đồng tư mật (Hoàng gia Anh) vẫn giữ quyền Toà phúc thẩm cao nhất tại Singapore, do vậy, họ không dễ áp dụng các luật pháp khác trong tố tụng, xét sử, (3)Trong thực tế có thể thấy rằng, các quyết định theo luật Anh quốc thường được tin cậy và có sức thuyết phục cao. (4)Một điều nữa lý giải việc luật Anh quốc được áp dụng thường xuyên tại Singapore là, tình trạng thiếu sách giáo khoa ngành pháp luật và các án lệ tại địa phương.
Những lý do trên giải thích vì sao luật Anh quốc lại được áp dụng phổ biến tại Singapore và Điều lệ thứ 2 lại cho phép tất cả các bộ luật Anh quốc, có hiệu lực tại thời điểm năm 1826 được áp dụng chung, phù hợp các điều kiện của Singapore và không trái với hệ thống luật chung Anh-Mỹ của nước Anh. Bên cạnh việc áp dụng Điều lệ thứ 2, những năm gần đây các điều luật Anh quốc liên quan đến thương mại cũng được áp dụng ở Singapore(Chương 43-Phần V-Bộ luật dân sự năm 1988).
Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng Điều luật thứ 2 và phần V này, cho thấy một số vướng mắc như việc không xác định rõ ràng là, loại văn bản luật nào được áp dụng và ngược lại, loại nào không được áp dụng.
(2)Việc áp dụng luật pháp tại Singapore hiện nay đã có nhiều thay đổi, nhiều bộ luật Anh quốc không còn được áp dụng, thay vào đó là những bộ luật mới mang bản sắc dân tộc. Bắt đầu từ tháng 4 năm 1994, quyền kháng án lên Hội đồng tư mật đã bị xoá bỏ, thay vào đó là Toà Phúc thẩm Singapore. Việc xoá bỏ quyền kháng án lên Hội đồng tư mật mang một ý nghĩa rất quan trọng là, nó cắt đứt sự phụ thuộc, hạn chế phát triển luật pháp bản địa vốn phụ thuộc nặng nề vào các nguồn luật, án lệ Anh quốc và nó còn mang một ý nghĩa khác là, Singapore sẽ phát triền nền khoa học luật pháp độc lập, phù hợp với quá trình phát triển kinh tế, xa hội trong nước cũng như tình hình phát triển quốc tế, khu vực.
Năm 1993, Singapore ban hành Đạo luật về áp dụng luật Anh quốc tại Singapore. Đạo luật này đã xoá bỏ việc tiếp nhận tất cả các văn bản luật Anh quốc và xác định, liệt kê cụ thể các loại văn bản pháp luật của Anh quốc còn được áp dụng tại Singapore. Theo danh mục này, các văn bản sau (1)Đạo luật hợp doanh 1890;(2)Đạo luật mua bán hàng hoá 1979 và (3)Đạo luật chuyên chở hàng hoá bằng đường biển 1992 còn được áp dụng tại Singapore. Đạo luật về áp dụng luật Anh quốc cho phép tiếp thụ hệ thông luật Anh-Mỹ và coi nó như bộ phận trong hệ thống luật pháp Singapore ngày nay.
Để xây dựng hệ thống án lệ cho riêng mình, năm 1992 được coi là năm các báo cáo về luật pháp Singapore. Việc này nhằm tạo nên tập quán mới là, dựa vào án lệ bản sứ nhiều hơn là dựa vào các quyết định của luật Anh. Trong quá trình đó, Singapore chủ trương hình thành nền khoa học luật pháp và biên soạn sách giao khoa luật pháp của riêng mình. Tuy nhiên, trong thực tiễn còn nhiều án lệ Anh quốc thường áp dụng nhiều, có tính thuyết phục cao vẫn được áp dụng ở những nơi, những lúc mà luật Singapore không đề cập tới hoặc không cấm áp dụng.
Các quyết định của Toà án Anh quốc vẫn có ảnh hưởng nhất định tới tới luất Singapore, đặc biệt là, những lĩnh vực mà hệ thống luật Anh-Mỹ được áp dụng. Tuy vây, các toà án Singapore không bị dàng buộc phải tuân theo các quyết định nói trên, Toà án Singapore chỉ áp dụng những quyết định của Anh quốc trong trường hợp xét thấy hợp lý, có sức thuyết phục và phù hợp với các điều kiện của Singapore.
Ngoài sự ảnh hưởng từ các quyết định của toà án Anh quốc, do lịch sử hình thành nền luật pháp Singapore như nói ở phần trên, thực tiễn áp dụng tiền lệ pháp của Singapore còn chịu ảnh hưởng từ nhiều quốc gia khác như Ân độ, Uc, Canada, New Ziland và Hoa kỳ v. v. . trong nhiều linh vực khác nhau của luật pháp Singapore.
2. Nguồn luật
Nhìn chung các chế định hình thành nền luật pháp Singapore cũng tương tự như ở nhiều Quốc gia khác và chia thành 2 loại (1)luật thành văn và (2)luật bất thành văn.
(1)Luật thành văn, do các cơ quan quyền lực lập pháp ban hành, xếp theo thứ tự quyền năng pháp lý gồm, Hiến pháp, Văn bản pháp luật, Văn bản dưới luật.
Hiến pháp (1992) là Đạo luật cao nhất của Quốc gia, nó đề ra những nguyên tắc cơ bản, khung pháp lý gốc của Nhà nước, chính quyền và quyền cơ bản của cá nhân. Bất kỳ đạo luật nào của Nghị viện ban hành, trái với Hiến pháp sẽ bị coi là vô hiệu hoặc tuỳ mức độ, sẽ bị toà án tuyên huỷ.
Văn bản pháp luật, gồm tất cả các đạo luật do Nghị viên Singapore ban hành và một số đạo luật Anh quốc đã được Singapore tiếp nhận, cho áp dụng. Tại Singapore, Văn bản pháp luật được phổ biến rộng rãi, thường xuyên được xem xét xửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình kinh tế, xã hội.
Văn bản dưới luật, cũng như ở nhiều quốc gia khác, các Văn bản pháp luật (quy chế, quy định, nghị định, thông tư v. v. . )do các Bộ trưởng, Cơ quan ngang Bộ, các Cơ quan thẩm quyền của Chính phủ ban hành đều được coi là những văn bản dưới luật. Sở dĩ văn bản dưới luật ngày càng được sử dụng phổ biển bởi các lợi ích sau đây (1)làm cho quy trình và thời gian làm luật nhanh hơn do được cụ thể hoá các luật bằng những văn bản dưới luật, mà không cần đưa vào luật quá nhiều nội dung chi tiết, (2)Văn bản dưới luật là những văn bản chi tiết hoá nội dung luật, giải thích và hướng dẫn việc thực hiện.
Singapore đã có Tuyển tập(1990) gồm toàn bộ văn bản dưới luật và Singapore được coi là một trong những nước khối Liên hiệp Anh có tuyển tập văn bản dưới luật hoàn chỉnh.
(2)Luật bất thành văn, gồm tiền lệ pháp và án lệ, ngoài ra còn một phần rất nhỏ các thông lệ.
Tiền lệ pháp, trong điểm này cần chú ý 2 nội dung(1) Học thuyết phục tùng các tiền lệ (Stare Decisis) và (2) những quy tắc pháp lý mà dựa vào đó để ra quyết định (Ratio Desidendi và obiter dicta).
(1)Học thuyết phục tùng các tiền lệ, tức là, bắt buộc các toà cấp dưới phải theo các quyết định của toa cấp trên và những quyết định của toa cấp trên cũng có tính hướng dẫn các toà cấp dưới vận dụng trong các quyết định của mình để sử những vụ tương tự. Điều bắt buộc này có 2 ý nghĩa pháp lý, (1)ngành tư pháp cần những vụ tương tự để quyết định theo cách tương tự, (2)đảm bảo tính chắc chắn về pháp lý và sự phát triển luật pháp có trật tự. Theo nguyên tắc này, quyết định của Toà Phúc thẩm, Toà án cấp trên có tính bắt buộc các toa cấp dưới phải thực hiện.
Nguyên tắc phục tùng các tiền lệ là dựa vào các quyết định trước đó như một nguồn luật và được ghi chép một cách có hệ thống, cụ thể và gọi là “Tập san pháp luật Malaysia”và sau này gọi là“Các ghi chép luật pháp Singapore”. Các luật gia muốn nắm được những tiến triển mới nhất của án lệ, phải thường xuyên theo dõi, cập nhật từ tập san này.
(2)Ratio Desidendi tức là trong mọi phán quyết của thẩm phán chỉ phần Ratio Desidendi là phẩn có tính cưỡng chế, bắt buộc, vì những phần này thường được hình thành từ những tình tiết cụ thể. Những nhận xét của thẩm phán về những vấn đề luật pháp không trực tiếp liên quán đến nội dung tranh chấp sẽ không có hiệu lực cưỡng chế và gọi là obiter dicta.
Tập quán pháp, tại Singapore việc tiếp nhận pháp luật Anh quốc cũng tuy thuộc vào một số tiêu chuẩn và phải được sửa đổi để khi áp dụng không bị ép buộc gò bó hoặc bất bình dẳng. Bên cạnh đó, những yếu tố khác rất quan trọng cần xem xét đến là phong tục tập quán và tôn giáo của cư dân được thể hiện trong tập quán pháp và được luật pháp công nhận. Ngoài ra, các tập quán pháp lý về thương mại cũng có thể trở thành luật pháp nếu chúng mang tính chắc chắn và không bất hợp lý hoặc bất hợp pháp và chúng phải được Toà án công nhận.
Phần II : Hệ thống toà án tại Sngapore
Cũng như Toà án ở nhiều quốc gia khác, các Toà án tại Singapore có thẩm quyền giải quyết tất cả các vấn đề dân sự, hình sự và tranh chấp hành chính (tranh chấp liên quan đến một Cơ quan Chính phủ).
Hệ thống Toà án Singapore có thể chia ra như sau :
1. Toà án tối cao, gồm Toà đệ nhất cấp và Toà Phúc thẩm.
(1)Toà đệ nhất cấp thực hiện việc xét xử ban đầu và xét xử phúc thẩm cả dân sự và hình sự. Tức là Toà này có thẩm quyền xét xử trực tiếp và xét xử những kháng cáo từ các Toà cấp dưới. Ngoài ra, theo điều 100 Hiến pháp Singapore, Tổng thống có quyền đưa bất kỳ vấn đề hiến pháp nào ra để làm rõ tại một Toà án hiến pháp đặc biệt gồm ít nhất 3 thẩm phán của Toà án tối cao. Toà đệ nhất cấp là Toà án duy nhất có thẩm quyền chung, tức là nó là toà sơ thẩm duy nhất ở Singapore có thẩm quyền xét xử tất cả các vụ dân sự và hình sự và ở mọi mức độ.
Tuy nhiên, do phân cấp trong hệ thống Toà án, thường chỉ những vụ tranh chấp dân sự, hình sự lớn thì Toà đệ nhất cấp mới tiến hành xét xử, các mức khác do các Toà cấp dưới giải quyết. Các Toà sơ thâm khác đều là toà trực thuộc có thẩm quyền hạn chế hoặc đặc biệt chỉ để xét xử một vụ dân sự, hình sự nào đó hoặc xét xử những vụ tranh chấp với trị giá nào đó do pháp luật quy định .
Thẩm quyền xét xử phúc thẩm của Toà đệ nhất cấp bao gồm việc giải quyết các kháng cáo dân sự từ các Toà cấp Quận, địa hạt hoặc toà tiểu hình vi cảnh. Trong các vấn đề hình sự, Toà đệ nhất cấp giải quyết kháng cáo từ toà cấp quận, hạt hoặc toà tiểu hình vi cảnh và có thẩm quyền bác kháng cáo;thay đổi hoàn toàn phán quyết hoặc lệnh, thay đổi thời hạn hoặc tính chất của hình phạt; lệnh xử lại hoặc lệnh thu thập thêm chứng cứ.
Tuy nhiên, quyền bác kháng cáo chỉ được thực hiện khi Toà đệ nhất cấp chứng minh được rằng, phán quyết; tuyên bố vô tội, hình phạt hoặc lênh của Toà án cấp dưới là không đúng pháp luật, mâu thuẫn với chứng cứ hoặc mức hình phạt vượt giới hạn. Ngoài thẩm quyền xét xử phúc thẩm và sơ thẩm nói trên, Toà đệ nhất cấp còn có quyền xem xét lại các thủ tục dân sự và hình sự và giám sát việc xét xử tại các Toà án trực thuộc, đồng thời đôn đốc các Toà trực thuộc ghi chép, lưu trữ đầy đủ biên bản về thủ tục tiến hành các vụ xét xử để đảm bảo tính chính xác, đúng đắn và hợp pháp trong việc ra quyết định ở tất cả các vụ xét xử.
(2)Toà phúc thẩm có quyền năng cao nhất, nó có thẩm quyền xét xử phúc thẩm đối với các vấn đề dân sự và hình sự, tức là giải quyết các kháng cáo từ Toà đệ nhất cấp và các toà trực thuộc. Tuy vậy, trong các vấn đề dân sự, Toà phúc thẩm chỉ giải quyết kháng cáo những vụ tranh chấp dân sự theo mức luật định, không phải giải quyết tất cả (ví dụ, tranh chấp dân sự trị giá trên USD30. 000).
Thẩm quyền giải quyết các vấn đề hình sự tại Toà phúc thẩm bao gồm, các kháng cáo từ toà đệ nhất cấp trong xét xử sơ thẩm của toà này và những vấn đề mà pháp luật bảo lưu trước Toà đệ nhất cấp. Toà phúc thẩm cũng có thể giải quyết kháng cáo từ các toà trực thuộc, trong trường hợp kháng cáo đã được cấp toà đệ nhất cấp xét xử nhưng còn có nội dung pháp lý nào đó được bảo lưu, toà đệ nhất cấp không thể quyết định.
2. Các toà án trực thuộc, gồm 6 cấp Toà án sau :
(1)Toà án quận, hạt có thẩm quyền giải quyết các vụ tranh chấp dân sự có thể tới mức SGD100. 000; tới SGD3. 000. 000 nếu là chúc thư hoặc là án hành chính. Nhìn chung thẩm quyền của Toà án này giới hạn trong việc xét xử những tội chỉ bị phạt tiền (không quá SGD10. 000) hoặc phạt giam tối đa không quá 10 năm và phạt không quá 12 roi.
(2)Toà tiểu hình vi cảnh, chỉ xét xử nhưng vụ khiếu kiện đòi tiền và mức giải quyết không quá USD30. 000 hoặc những tội mức phạt giam không quá 3 năm và phạt không quá 6 roi.
(3)Toà xử các vụ án mạng, toà này xét xử các vụ tử vong mà qua điều tra, xác minh có dấu hiệu đó là vụ tử vong không tự nhiên. Các vụ án này được giải quyết theo một trình tự tố tong riêng.
(4)Toà vị thành niên, giải quyết tội phạm vị thành niên. Sở dĩ phải lập riêng Toà án cho loại hình tội phạm này, vì mục đích của nó là dùng những biện pháp nhằm cải tạo, giáo dục những phạm nhân vị thành niên để đưa họ tái hoà nhập xã hội hơn là dùng những hình phạt.
(5)Toà sử những vụ khiếu kiện nhỏ, loại toà này nhằm giảm bớt lượng các khiếu kiện phải đưa ra các Toà tiểu hình vi cảnh. Toà này giải quyết những khiếu kiện về hợp đồng hàng hoá, dịch vụ hoặc những bồi thường tài sản có giá trị nhỏ, không quá SGD5. 000-10. 000. Phương thức hoà giảI, nếu hai bên nhất trí, sẽ được Toà án công nhận kết quả hoà giải đó, ngược lại, hoà giải thất bại, vấn đề sẽ được đưa ra các trọng tài.
(6)Toà gia đình, giải quyết những vấn đề về hôn nhân và những quan hệ khác trong gia đình. Mục đích giảm nhẹ, giải quyết theo hướng đơn giản hoá những bất đồng trong các mối quan hệ gia đình và bằng 2 vòng hoà giải, nếu qua 2 vòng hoà giải thất bại, sự vụ mới được đưa ra xét xử tại toà án.
Phần III: Giải quyết khiếu kiện tại Singapore
1. Quá trình xét xử, nhìn chung khi các bên không thể giải quyết tranh chấp thì một bên (nguyên đơn) có thể khởi kiện bên kia (bị đơn) ra một trong các mức Toà án tại Singapore. Để xác định đúng Toà án nào có đủ thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp của mình, nguyên đơn cần nắm rõ (1). Mức toà đó có đủ thẩm quyền xử loại khiếu nại mình đưa ra không? và (2) bị đơn (người, Cty) có thể bị kiện tại toà án Singapore không?
Trong lĩnh vực khiếu kiện thương mại, tại Singapore phân thành 3 mức Toà :
(1)Toà sơ khởi, giải quyết khiếu nại tới mức SGD30. 000
(2)Toà Quận, hạt, giải quyết khiếu kiên tới SGD100. 000. Toà (1) và (2), Toà cấp dưới.
(3)Toà đệ nhất cấp(thượng thẩm) khiếu nại với bất kỳ khoản tiền nào.
Toà Phúc thẩm xét kháng cáo từ toà Thượng thẩm và trong một số trường hợp, từ các mức toà án khác. Tất cả các quy định này đều nằm trong Văn bản pháp lý“Nguyên tắc Toà án”của Singapore.
2. Bị đơn (cá nhân, Cty) có thể đưa ra kiện tại Toà án Singapore gồm :
* Bị đơn (cá nhân, Cty) có mặt tại Singapore.
Tất cả các cá nhân có mặt tại Singapore;các Cty thành lập tại Singapore(theo luật Singapore) hoặc Cty nước ngoài có trụ sở đăng ký tại Singapore, đều có thể bị kiện tại Toà án Singapore.
* Bị đơn (cá nhân, Cty) không có mặt tại Singapore.
Các Toà án Singapore cũng có thể xét xử một vụ khiếu kiện đối với cá nhân hoặc Cty không có mặt tại Singapore trong các trường hợp sau.
* Một cá nhân đang làm ăn ở nước ngoài, nhưng có hộ khẩu thường trú tại Singapore hoặc có tài sản tại Singapore, có thể bị kiện và bị xét xử tại các Toà án Singapore.
* Một công ty có tài sản hoặc thực hiện kinh doanh tại Singapore, có thể bị kiện và bị xét xử tại các Toà án Singapore.
* Cá nhân, Cty nước ngoài cũng có thể bị kiện tại Singapore nếu họ sử dụng Đại lý có mặt tại Singapore và khiếu kiện trên liên quan đến công việc kinh doanh do đại lý thực hiện thay Cty, cá nhân tại Singapore.
*Các Toà án Singapore cũng có thể xét xử đối với cá nhân, Cty không có mặt tại Singapore, nhưng khiếu nại liên quan tới việc vi phạm cam kết, hợp đồng làm tại Singapore, được chi phối bởi luật Singapore hoặc hợp đồng có thoả thuận về quyền xử vi phạm, quyền tài phán thuộc Toà án Singapore.
* Trong mọi trường hợp khi một cá nhân hoặc Cty bị kiện, không có mặt tại Singapore Toà có toàn quyền quyết định việc xử khiếu nại đó với cá nhân hoặc Cty.
* Một vụ kiện không liên quan gì đến cá nhân, Cty ở Singapore(như nói ở các điểm trên)cũng có thể bị đưa ra xét xử tại Toà án Singapore, nếu hai bên tham gia tố tụng thoả thuận chọn toà án Singapore, luật Singapore để phân xử tranh chấp của họ.
3. Việc thi hành phán quyết của Toà án, Trọng tài Singapore
* Thi hành phán quyết của Toà án Singapore tại Singapore.
Khi một vụ khiếu kiện được xét xử xong, Toà án sẽ đưa ra phán quyết bằng “Lệnh” của Toà án có giá trị bắt buộc đối với các đương sự (ngoại trừ trường hợp kháng án) và có giá trị thi hành trong thời hiệu được pháp luật quy định. Phán quyết buộc bên thua kiện phải bồi hoàn thiệt hại như “Lệnh” đã ra. Nếu bên thua kiện không thực hiện bồi hoà theo “Lệnh”, Toà có quyền(theo đơn của bên thắng kiện)ra lệnh tịch thu và mang bán để giải quyết những khoản nợ tại phán quyết, những tài sản gồm đất đai, động sản và tài khoản tại ngân hàng.
* Thi hành phán quyết của Toà án Singapore tại các Toà án ngoài Singapore.
Điều này còn phụ thuộc vào luật pháp của các nước đối tác và phụ thuộc vào các thoả thuận song phương giữa Singapore và nước đối tác đó.
4. Phí xét xử vụ kiện tại Toà án Singapore
Chi phí phụ thuộc vào tính chất phức tạp của vụ kiện, số lượng và kinh nghiệm của luật sư tham gia và thời gian xét xử dài hay ngắn. Ngoài các khoản phí đại diện và tư vấn pháp luật, nếu một vụ kiện được đưa ra giải quyết tại Toà Thượng thẩm hoặc Toà Phúc thẩm Singapore, mức phí xử kiện là SGD1. 500-3. 000/ngày xét xử.
Phần IV : Giải quyết tranh chấp qua trọng tài Singapore
Một tập quán khá phổ biến ngày nay trong thương mại quốc tế cũng như tại Singapore là giaỉ quyết tranh chấp qua Trọng tài. Điều này sẽ làm cho các vụ tranh chấp trở nên đơn giản hơn, giảm tới mức tối đa sự liên quan tới pháp lý và mang lại rất nhiều lợi ích thiết thực cho các bên tham gia tranh chấp. Ví dụ, có thể tiến hành hoà giải kín; trọng tài viên thường rất chuyên sâu lĩnh vực tranh chấp giúp cho việc giải quyết chính xác, phán xét nhanh gọn; ngày, thời gian, lịch xét xử có thể xắp xếp linh hoạt, giải quyết công việc vào ngày nghỉ, cuối tuần hoặc buổi tối v. v...
Cũng như ở nhiều Quốc gia khác, tại Singapore Toà án có nhiều quyền lực trong vấn đề trọng tài và quyền lực này nhằm trợ giúp trọng tài chứ không nhằm can thiệp vào hoạt động hoặc quyết định của trọng tài theo nguyên tắc là, các Toà án Singapore sẽ công nhận điều khoản trọng tài có giá trị. Trong trường hợp một bên khởi kiện ra Toà, bên đối lập lại có đề nghị xử bằng trọng tài, Toà có thể đình chỉ xét xử tại Toà, chuyển sự vụ sang trọng tài.
1. Nguyên tác giải quyết tranh chấp qua trọng tài.
(1)Hai bên bắt buộc phải có thoả thuận về trọng tài
Không giống như vụ kiện trước toà án, nếu không có một thoả thuận trước về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thì một bên không thể bắt bên kia phải đưa vụ việc ra trọng tài, vì vậy, trước khi đưa vụ việc ra trọng tài bắt buộc hai bên phải có thoả thuận về trọng tài (điều khoản trọng tài trong hợp đồng).
Thoả thuận trọng tài có thể cho những tranh chấp đang sẩy ra và cũng có thể cho những vụ làm ăn trong tương lai. Ví dụ, khi ký một hợp đồng, hai bên có thể đưa ra điều khoản trọng tài(thoả thuận trọng tài)là, mọi tranh chấp (nếu có) sẽ giải quyết bằng thương lượng, hoà giải giữa hai bên, nếu không hoà giải được, tranh chấp sẽ đưa ra xử tại một trọng tài nào đó (Vietnam/Singapore).
(2)Chỉ định trọng tài viên,
Thường khi đưa ra thoả thuận trọng tài, it khi hai bên chỉ định ngay tên một trọng viên cụ thể, mà khi có tranh chấp hai bên căn cử vào tính chất vụ việc để chỉ định tên một trong tài viên cụ thể phù hợp tính chất của vụ việc sẽ đưa ra xử. Tuy nhiên, nếu đã chỉ định người trọng tài viên cụ thể trước, khi có vụ việc, người đó sẽ là trọng tài giải quyết vụ việc, trừ phi cả hai bên thoả thuận khác. Việc chỉ định trọng tài viên cũng có thể theo cách, một bên thông báo cho bên kia người mà minh chỉ định, nếu bên kia không phản đối, người đó sẽ là trong tài viên của cả hai bên.
Ngoài ra, nếu thoả thuận cho quyền một bên hoặc cho người thứ ba chỉ định trọng tài, thì quyết định của người, bên đó có giá trị dàng buộc cả hai bên.
(3)Lựa chon địa điểm, nguồn luật,
Các bên có thể tự do lựa chon bất kỳ luật nào để giải quyết tranh chấp có lợi cho mình, các trọng tài viên phải áp dụng luật mà hai bên đã chọn. Ngược lại, nếu hai bên không lựa chọn nguồn luật cụ thể nào, thì vấn đề sẽ được quyết định theo luật pháp mà giao dịch đó có mối liên quan trực tiếp, gần nhất.
Về địa điểm trọng tài, tại các Thủ đô các nước đều có Trọng tài, hai bên có thể thoả thuận xử ở trọng tài nào thuận tiện, phù hợp nhất cho cả hai.
2. Giới thiệu vài nết về trung tâm trọng tài quốc tế Singapore(SIAC)
(1)Trung tâm trọng tài Quốc tế Singapore(viết tắt là SIAC),
SIAC là Công ty hữu hạn đảm bảo của Nhà nướcphi lợi nhuận, thành lập năm 1990. SIAC cung cấp dịch vụ, phương tiên cho Trọng tài thương mại trong nước và Quốc tế. Tại Singapore, SIAC cung cấp các phương tiện phục vụ cho Trọng tài như các phòng xét xử được trang bị hệ thống nghe/nhìn hiện đại, các phòng họp, các dịch vụ thư ký, phiên bản v. v. . cho các phiên xét xử của Trọng tài. Các phương tiện, thiết bị có thể chuyển các vụ xét
xử tại trọng tài qua viễn thông; Các phiên bản, biên bản(bằng chứng)có thể được giao cho các bên trong 24 giờ. SIAC cũng cho phép việc xét xử diễn ra vào buổi tối, ngày nghỉ tạo thuận lợi về thời gian cho các bên tham gia.
SIAC luôn có 2 danh sách các Trọng tài viên (1)Bạn trọng tài viên Quốc tế chính thức(tức trọng tài viên thường trực) và (2)Ban trọng tài viên(không thường trực)bao gồm các trọng tài viên là chuyên gia các chuyên ngành(thương mại quốc tế, vận tải biển, xây dựng, bảo hiểm, tài chính v. v. . ).
SIAC tuân thủ các nguyên tắc của trọng tài UNCITRAL;nguyên tắc của Trọng tài Quốc tế London, nhưng về mặt thủ tục có thay đổi nhằm rút ngắn, bỏ bớt một số thủ tục và thời gian ra quyết định của trọng tài cũng nhanh hơn. Một nguyên tắc quan trọng nữa của SIAC là, quyết định của Uỷ ban trọng tài là không thể kháng cáo.
Tên gọi và Địa chỉ chính thức của SIAC :
Singapore International Arbitration Center
No. 3 St Andrew’s Road, Third Level City Hall, Singapore 178958.
Tel : (65) 6334 1277 Fax : (65) 6883 0823 Email: sinarb@siac. org. sg
Các thông tin về SIAC có thể tìm thấy qua Website: http://www. siac. org. sg/
SIAC ngày càng có uy tin trong khu vực, quốc tế chính là do họ có dịch vụ, phương tiện làm việc hiện đại và có đội ngũ trọng tài viên giỏi, chuyên sâu nhiều lĩnh vực, được đánh giá cao về chuyên môn trọng tài, các phán quyết của trọng tài SIAC thường được các bên tôn trọng.
Nhiều người, Cty nước ngoài, trong đó có Việt nam, phân vân mỗi khi phải cân nhắc xem có nên chon trọng tài tại Singapore để xử các tranh chấp thương mại không và đặc biệt, khi vụ kiện bị đơn là một cá nhân hoặc Cty Singapore? Cách nghĩ thông thường cho rằng, người và Cty nước ngoài sẽ bị bất lợi, khi chọn trọng tài Singapore, vì trọng tài này sẽ bảo vệ lợi ích của người hoặc Cty Singapore. Trong thực tế điều này khó sẩy ra, vì những lý do sau :
(a)Singapore luôn muốn mình trở thành trung tâm trọng tài quốc tế có uy tín. Để đạt tới mục đích này, Singapore luôn phải thể hiện việc phán xét tại SIAC đảm bảo tính độc lập và công bằng. Bên cạnh đó, SIAC luôn đòi hỏi các trọng tài viên phải chứng minh được mình hoàn toàn công bằng, độc lập trong mọi phán quyết nếu có sự nghi ngờ nào đó.
(b)Khi chỉ định trọng tài viên, người phụ trách hoặc Chủ tich SIAC phải xem xét mọi khía cạnh để việc chỉ định một trọng tài viên ngồi gế xét xử và đưa ra phán quyết công bằng, độc lập. Nếu các bên tham gia vụ kiện từ các nước khác nhau hoặc một bên là cá nhân, Cty Singapore, Chủ tịch SIAC phải chỉ định một trọng tài viên trung lập, không cùng quốc gia, không có mối liên hệ với các bên tham gia vụ kiện.
(c)SIAC có ban trọng tài viên, gồm nhiều chuyên gia nước ngoài (không cư trú tại Singapore), để đảm bảo tính khách quan, những người này có thể được chỉ định xử những vụ kiện có yếu tố đa quốc tịch hoặc một bên tham gia tranh chấp là cá nhân, Cty Singapore.
Với những nguyên tắc trên, SIAC có điều kiện để đảm bảo việc xét xử những vụ tranh chấp thương mại bất kỳ diễn ra công bằng và độc lập. Điều này làm cho nhiều cá nhân, Cty nước ngoài yên tâm, tin cậy mỗi khi chọn trọng tài SIAC làm nơi xử kiện.
(2)Thi hành phán quyết của trọng tài,
a. Quyền lực của Toà án đối với Trọng tài, nói chung các Toà án Singapore có quyền lực rộng đối với trọng tài như (1)Quyền chỉ định trọng tài viên, khi các bên tham gia tranh chấp
không nhất trí được việc chỉ đình trọng tài, (2)Đình chỉ (hoặc hoãn)việc xét xử của trọng tài, nếu thấy có dấu hiệu vi phạm thoả thuận về trọng tài, (3)Xét kháng cáo (nếu có)từ các vụ xét xứ của trọng tài, (4)Thi hành các quyết định của trọng tài ra tại Singapore và (5)Thực thi các quyết định của trọng tài Singapore ở nước ngoài trong một số trường hợp.
b. Toà án thi hành quyết định của trọng tài đưa ra tại Singapore. Khi một quyết định của trọng tài đưa ra, được thi hành theo cách thức như một phán quyết, lệnh của Toà án. Bên thắng kiện có thư yêu cầu Toà cho thi hành quyết định, tiếp đó, Toà ban “Lênh”thi hành án gửi phụ trái, trong vòng 14 ngày, nếu phụ trái không kháng cao, quyết định được thi hành.
c. Thực hiện các quyết định của trọng tài Singapore ở nước ngoài: Như đã nói ở điểm trên, việc thực thi này liên quan tới luật pháp của nước bên thua kiện và dựa vào các thoả thuận giữa Singapore và nước đó.
d. Thực hiện các quết định của trọng tài nước ngoại tại Singapore: Điều này cũng phụ thuộc vào việc nước ngoài đó có cùng tham gia các Hiệp ước quốc tế liên quan không. Nếu hai bên cùng tham gia một hiệp ước quốc tế liên quan tới trọng tài, họ sẽ phải ban hành những luật song phương và vận dụng một hành lang pháp lý chung đó.
(3)Hệ thống song phương của Singapore có thể tóm tắt như sau :
* Phán quyết của trọng tài đưa ra tại bất kỳ nước khối Liên hiệp Anh cũng được thi hành như phán quyết của toà án Singapore, nếu nó được đăng ký thi hành tại Toà Thượng thẩm Singapore.
* Phán quyết được đừa ra theo Luật mẫu UNCITRAL(Đạo luật Trọng tài Quốc tế). Luật mẫu gồm những nguyên tắc quy định về trọng tài thương mại quốc tế và trọng tài được gọi là trọng tài Quốc tế khi, các bên từ các nước khác nhau hoặc nơi trọng tài khác với nơi kinh doanh của các bên, hoặc các nghĩa vụ được thực hiện ở nơi khác với nơi các bên đóng trụ sở. Nếu hai bên thoả thuận theo luật mẫu, thì bất kể vụ kiện được xét xử ở đâu, trọng tài vẫn sẽ vận dụng theo luật mẫu.
* Phán xét đưa ra tại các nước Công ước New York 1958, cũng được thực thi tại Singapore theo cách thức như một phán quyết được đưa ra tại Singapore và không cần đăng ký với các cấp Toà án tại Singapore. Tuy nhiên, việc thi hành có thể bị khước từ trong một số trường hợp.
Ghi chú :
Tài liệu được Thương vụ tại Singapore biên/dịch theo tài liệu của một số công ty uật tại Singapore và chỉ cho mục đích tham khảo.
(Thương vụ Việt Nam tại Singapore)