Bản điều lệ Doanh nghiệp
03.08
Nhằm giúp các nhà đầu tư hiểu sâu hơn về Luật
Doanh nghiệp để hành xử trong công việc kinh doanh, kỳ này Luật sư
Nguyễn Ngọc Bích sẽ phân tích về Bản điều lệ - vai trò, mục đích, tương
quan giữa nó với Luật Doanh nghiệp.
Mục đích của bản điều lệ
Luật Doanh nghiệp (LDN) của Việt
Nam không định nghĩa bản điều lệ (BĐL) là gì mà chỉ liệt kê các nội
dung chính nó phải có (điều 15 LDN 2005). Luật công ty mẫu của Mỹ cũng
không định nghĩa. Còn từ điển về luật của họ thì giải nghĩa đó là những
điều khoản hành chính do một tổ chức lập nên để quy định công việc quản
trị bên trong và giao dịch với bên ngoài của tổ chức ấy. Nói nôm na thì
đó là bản thỏa thuận giữa những người sáng lập công ty với các cổ đông
và giữa các cổ đông với nhau cùng được soạn căn cứ trên những khuôn mẫu
chung của luật pháp (luật doanh nghiệp, luật thuế, luật lao động...) để
ấn định cách tạo lập, hoạt động và giải thể của một doanh nghiệp. Trong
ý nghĩa đó BĐL giống như một bản hợp đồng có “tính chất quy định”. Tuy
nhiên, vì công ty là “con người do luật pháp đặt ra” nên - khác với các
bản hợp đồng thông thường - BĐL có thể trưng ra được cho những người
thứ ba và buộc họ phải chấp nhận (“tính chất đối kháng”) khi giao dịch
với công ty.
Do “tính chất đối kháng” của BĐL nên các ngân
hàng và những người muốn mua công ty xem BĐL kỹ lắm; thậm chí cả các
văn bản mà đại hội đồng cổ đông và hội đồng quản trị ban hành theo các
quy định của BĐL để biết công ty được làm gì hầu ràng buộc nó vào hành
vi mà nó muốn thực hiện với họ (vay tiền, hay bán mình đi).
Tương quan giữa bản điều lệ và Luật Doanh nghiệp
Như
đã nêu, BĐL được soạn dựa theo các khuôn khổ của các luật khác nhau
điều chỉnh sự hình thành, phát triển, kể cả sự phá sản của “cỗ xe” mà
những người sáng lập muốn dựng xây bằng tiền của mình và của người
khác. Luật điều chỉnh nhiều nhất trong phạm vi này là LDN. Thành ra khi
soạn thảo BĐL những người sáng lập công ty sắp xếp ý muốn của họ đi
theo các khuôn khổ luật định mà đã được cắt đẽo, thêm bớt theo nguyên
tắc “không trái pháp luật” để thực hiện việc đầu tư của mình. Những
người ấy thực sự không muốn chia xẻ quyền quản lý và điều hành công ty
của mình với ai; nhưng vì cần tiền của người khác nên họ phải làm trái
đi một cách bất đắc dĩ. Vậy vấn đề là chia xẻ thế nào, nhượng bớt những
gì để mình không mất nhiều mà những người mình muốn họ hùn hạp chấp
nhận và nằm trong khuôn khổ của luật pháp đã được vận dụng. Ngoài ra
còn phải tính đến chủ trương của luật kia; nó đứng về phe nào trong số
các đối tượng được điều chỉnh. Chẳng hạn, LDN năm 2005 chủ trương bảo
vệ cổ đông ít vốn, và làm mạnh hơn luật năm 2000 nhiều. Khả năng xoay
trở trong khuôn khổ “không trái pháp luật” mà những người sáng lập có
thể làm được nằm ở cách thức và thời gian góp vốn, cơ cấu tổ chức của
công ty, thủ tục họp hành, thể thức quyết định... để làm sao đạt được
mục đích của mình.
Vì lẽ trên, BĐL phải du nhập vào nó những
điều khoản của LDN đã “được cắt gọt” để những người sáng lập vận hành
được “cỗ xe”. Nó là sự cụ thể hóa LDN vào hoàn cảnh cụ thể của một
doanh nghiệp. Công việc ấy đòi hỏi người sáng lập phải thực tế, hiểu
biết lòng người để đừng dại dột trói tay mình chặt hơn luật đòi hỏi.
Thí dụ, luật bảo muốn ngưng buổi họp đại hội giữa chừng thì phải có 51%
cổ phần của những người hiện diện chấp thuận thì BĐL đừng lý tưởng hóa
lòng tốt của con người để nâng lên thành “của toàn thể cổ đông hiện
diện”; hoặc luật bảo cổ phần của người từ trần sẽ được chuyển sang cho
người thừa kế thì các cổ đông sáng lập có thể suy nghĩ “không trái
luật” rằng: “chơi với nó thì biết chứ chơi với con hay cháu nó thì biết
thế nào”; vậy họ sẽ bàn bạc để ghi trong BĐL rằng “cổ phần của người từ
trần sẽ được bán lại cho công ty”. Vậy BĐL lặp lại LDN, nhưng trong một
số vấn đề mà những người sáng lập quan tâm, nó đi sâu hơn, chi tiết hơn
LDN. Cũng chính vì việc “đi sâu hơn” này mà các cổ đông sáng lập còn ký
kết với nhau hợp đồng góp vốn trước khi ký BĐL, bởi vì có những điều họ
muốn nhưng không thể ghi vào BĐL. Thí dụ A,B,C góp vốn, họ đồng ý là A
sẽ luôn luôn là chủ tịch. Trong BĐL, theo LDN, họ chỉ có thể ghi “hội
đồng thành viên bầu một thành viên làm chủ tịch” chứ không thể ghi một
cách thẳng mực tàu là A được. Ngoài ra, còn nhiều vấn đề nữa mà các cổ
đông sáng lập phải làm nhưng không thể ghi vào BĐL. Thí dụ một số việc
phải làm trước khi công ty thành hình nhưng sau này công ty không thành
lập được. Vì những rắc rối của cuộc đời mà LDN không thể tiên liệu được
cho nên một BĐL muốn đạt mục đích “quy định” và “đối kháng” của nó
thường phải mở rộng luật bằng cách vận dụng luật. Do vậy, một BĐL làm
theo mẫu do cơ quan đăng ký kinh doanh đề nghị thì không bao giờ đủ,
chưa kể đến việc trong đó có những điều khoản phục vụ lợi ích của cơ
quan quản lý nhiều hơn là cho lợi ích của những người bỏ tiền! Và không
ít lần lại ép phải dùng nữa bằng cách từ chối đăng ký! Một môi trường
đầu tư thuận lợi hơn nằm nhiều ở chỗ tôn trọng quyền lợi của người đầu
tư khi luật pháp được áp dụng chứ không phải ở chỗ luật thông thoáng.
Luật thông thoáng nhưng đến tay các viên chức có trách nhiệm mà họ bịt
lại thì muôn năm môi trường đầu tư sẽ tốt đẹp trên... lời nói!
Vai trò của bản điều lệ khi có tranh chấp trong nội bộ công ty
BĐL
là sự cụ thể hóa LDN vào từng doanh nghiệp nhất định. Tính chất này
cũng giống như khi hai thương gia ký hợp đồng mua bán cho một vụ giao
dịch dựa trên luật thương mại hay dân sự. Trong mua bán, khi có tranh
chấp thì nguyên đơn sẽ thưa rằng bị đơn vi phạm một điều nào đó trong
bản hợp đồng (luật cụ thể) chứ không phải theo điều số mấy của luật
thương mại (luật tổng quát). Khi xét xử, chỉ khi nào luật cụ thể thiếu
hay không rõ tòa mới chiếu vào luật tổng quát, và nếu luật ấy thiếu tòa
sẽ chiếu vào tập tục. Nguyên tắc này ai học luật cũng biết. Trong tương
quan giữa BĐL và LDN thì nó cũng giống hệt như hợp đồng mua bán đối với
luật thương mại. Vậy khi các cổ đông cãi nhau thì họ tranh chấp về một
điều khoản nhất định nằm trong BĐL chứ không phải trong LDN. Đối với
LDN, họ bị buộc phải tuân thủ. Họ tranh cãi với nhau về một điều khoản
trong BĐL mà họ đã đồng ý với nhau là sẽ tuân giữ và đã ký tên vào đó.
Họ không hề ký để nói rằng chúng ta cùng tuân thủ LDN! Bởi thế cho nên,
khi các cổ đông của một công ty tranh chấp thì phải căn cứ vào BĐL
trước hết để xem xét ai đúng ai sai, nếu BĐL thiếu thì mới xem đến LDN.
Tất nhiên, ở ta việc ban hành và áp dụng LDN chỉ mới có 16 năm.
Chúng ta chưa quen và chưa nhuần nhuyễn trong việc áp dụng; vì thế, căn
cứ pháp lý muốn sử dụng cho đúng có khi cũng không làm được. Ngoài ra,
mọi việc làm còn đòi hỏi sự đồng bộ. BĐL không du nhập LDN vào thì làm
sao mà có thể chỉ căn cứ vào nó? Mục đích của bài này là nêu lên một
vấn đề về nhận thức: vấn đề phải như thế và cần như thế cho sự tiến bộ
của chúng ta.
Bản điều lệ là sự cụ thể hóa Luật Doanh nghiệp
vào hoàn cảnh cụ thể của một doanh nghiệp. Và khi các cổ đông của một
công ty tranh chấp thì phải căn cứ vào bản điều lệ trước để xem xét ai
đúng ai sai, nếu bản điều lệ thiếu thì mới xem đến Luật Doanh nghiệp.
|