Bạn Olympios,
Sao ko liên quan. Mình đang show ra cơ sở cơ quan thuế đang tính thuế như trong câu hỏi bạn thingkgs nêu ra. Việc doanh nghiệp bán hay không bán trước khi làm thủ tục giải thể, đó là chuyện không kiểm soát được. Đứng góc độ thuế, thì ra văn bản này để tránh thất thiệt NSNN, đối với số thuế đã hoàn cho DN.
Về thực chất, số thuế đầu ra và đầu vào net với nhau, thì còn lại số thuế được khấu trừ và làm thủ tục hoàn. Nhưng ở đây DN đã hoàn trước 245 tr, sau đó thanh lý 450tr, tương ứng số thuế 45tr. Nếu, giả sử ko hoàn thì mặc nhiên bài toán đơn giản: 260tr đầu vào - 45 tr đầu ra= 215tr là số thuế còn lại được khấu trừ và hoàn đối với TS này. Bây giờ đã được hoàn 245 tr, vậy có phải DN phải nộp lại NN 30tr thì mới đúng hay ko?
Tuy nhiên, vấn đề thắc mắc ở chỗ, nếu là cơ quan thuế họ sẽ xem xét ở chỗ. Tại sao giá trị còn lại của TSCĐ sau khi trừ giá trị khấu hao luỹ kế là 2.127.000.000đ, nhưng việc bồi thường chỉ 250tr và khi thanh lý chỉ 450tr chưa bao gồm VAT. Câu hỏi ở đây là đánh giá, giá trị còn lại của TSCĐ và mức độ hư hỏng của TS như thế nào? Nếu đứng góc độ thuế, thì mình hiểu cách tính và áp dụng trên.
Việc bồi thường, thì hiển nhiên DN khi nhận bồi thường sẽ xuất chứng từ thu theo qui định, ko xuất hóa đơn và kê khai thuế. Khoản 1, Điều 5 thông tư 219
Điều 5. Các trường hợp không phải kê khai, tính nộp thuế GTGT
1. Tổ chức, cá nhân nhận các khoản thu về bồi thường bằng tiền (bao gồm cả tiền bồi thường về đất và tài sản trên đất khi bị thu hồi đất theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền), tiền thưởng, tiền hỗ trợ, tiền chuyển nhượng quyền phát thải và các khoản thu tài chính khác.
Cơ sở kinh doanh khi nhận khoản tiền thu về bồi thường, tiền thưởng, tiền hỗ trợ nhận được, tiền chuyển nhượng quyền phát thải và các khoản thu tài chính khác thì lập chứng từ thu theo quy định. Đối với cơ sở kinh doanh chi tiền, căn cứ mục đích chi để lập chứng từ chi tiền.
Trường hợp bồi thường bằng hàng hoá, dịch vụ, cơ sở bồi thường phải lập hoá đơn và kê khai, tính, nộp thuế GTGT như đối với bán hàng hoá, dịch vụ; cơ sở nhận bồi thường kê khai, khấu trừ theo quy định.
Trường hợp cơ sở kinh doanh nhận tiền của tổ chức, cá nhân để thực hiện dịch vụ cho tổ chức, cá nhân như sửa chữa, bảo hành, khuyến mại, quảng cáo thì phải kê khai, nộp thuế theo quy định.
Một điều nữa, thời gian tính khấu hao TS này của DN khi đăng ký là bao nhiêu tháng? Thời gian phát sinh giao dịch mua TSCĐ này và kê khai khấu trừ là thời gian thông tư 129/2008/tt-btc còn đang hiệu lực.
Xét về góc độ kê khai, khấu trừ khoản thuế 260tr thì phải xét thông tư 129, tại thời điểm hành vi xảy ra (trích đoạn trích dẫn ở bài trên)
1. Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng từ thời điểm bắt đầu có hiệu lực.
Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng đối với hành vi xảy ra tại thời điểm mà văn bản đó đang có hiệu lực. Trong trường hợp văn bản có hiệu lực trở về trước thì áp dụng theo quy định đó.
Xét về thủ tục hoàn thuế vào tháng 04/2012, chỉ áp dụng hồ sơ, giải quyết hoàn thuế theo Thông tư 28/2011/TT-BTC hướng dẫn luật quản lý thuế, văn bản đang hiệu lực tại thời điểm làm thủ tục hoàn mà thôi.
Nếu xét theo quan điểm của bạn Thingkgs, áp dụng theo thông tư 06, thì quan điểm trên cũng chưa đúng. Mời mọi người tam khảo CV của thuế Bình Dương dưới đây. Thật ra, mình còn nhiều CV của thuế HCM dẫn chứng cho quan điểm trên, nhưng tiếc để ở máy công ty, ko có ở đây. Mọi người tham khảo CV thuế BD thôi cũng đủ rõ.
Cục Thuế có nhận được số 2/BGĐ/12016 ngày 13/6/2012 của Công ty về việc thu tiền bồi thường tổn thất hàng hoá.
Qua nội dung công văn nói trên, Cục thuế có ý kiến như sau:
-Tại điểm 2-điều 5-Chương 1 Thông tư 06/2012/TT-BTC ngày 11/01/2012 của Bộ Tài chính có quy định:
“Điều 5. Các trường hợp không phải kê khai, tính nộp thuế GTGT
Các khoản thu về bồi thường, tiền thưởng, tiền hỗ trợ nhận được, tiền chuyển nhượng quyền phát thải và các khoản thu tài chính khác, trừ khoản lãi cho vay do doanh nghiệp không phải là tổ chức tín dụng nhận được.
Cơ sở kinh doanh khi nhận khoản tiền thu về bồi thường, tiền thưởng, tiền hỗ trợ nhận được, tiền chuyển nhượng quyền phát thải và các khoản thu tài chính khác thì lập chứng từ thu theo quy định. Đối với cơ sở kinh doanh chi tiền, căn cứ mục đích chi để lập chứng từ chi tiền....”
-Tại điểm 2, Mục IV, phần B, Thông tư số 130/2008/TT-BTC ngày 26/12/2008 của Bộ Tài chính có quy định:
“2. Các khoản chi không được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế bao gồm:
2.1. Khoản chi không đáp ứng đủ các điều kiện quy định tại Khoản 1 Mục này, trừ phần giá trị tổn thất do thiên tai, dịch bệnh và trường hợp bất khả kháng khác không được bồi thường.”
Vậy, đối với phần hàng hoá bị tổn thất do chìm tàu được Công ty bảo hiểm bồi thường thì khoàn tiền nhận bồi thường này không thuộc trường hợp phải lập hoá đơn. Khi nhận tiền bồi thường tổn thất, Công ty lập chứng từ thu tiền theo quy định nêu trên để làm căn cứ kê khai vào thu nhập khác khi tính thu nhập chịu thuế TNDN và là cơ sở để Công ty bảo hiểm hạch toán vào chi phí hợp lý. Phần giá trị hàng hoá bị tổn thất không được bồi thường, Công ty được hạch toán vào chi phí hợp lý khi tính thu nhập chịu thuế TNDN.
-Tại điểm 1-điều 14-mục 1-Chương III Thông tư 06/2012/TT-BTC ngày 11/01/2012 của Bộ Tài chính có quy định:
“Thuế GTGT đầu vào của hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT được khấu trừ toàn bộ, kể cả thuế giá trị gia tăng đầu vào không được bồi thường của hàng hoá chịu thuế giá trị gia tăng bị tổn thất.”
Căn cứ theo quy định trên, thì chỉ có thuế GTGT đầu vào của hàng hoá bị tổn thất nếu không xác định được tổ chức, cá nhân bồi thường mới được khấu trừ thuế GTGT. Do vậy, đối với thuế GTGT của các hoá đơn liên quan đến lô hàng bị tổn thất: phí cảng, phí lưu kho, Công ty không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào.
Cục Thuế báo cho Công ty biết để thực hiện ./.
Nơi nhận: KT.CỤC TRƯỞNG
- Như trên; PHÓ CỤC TRƯỞNG
- P.TT & HT ;
- Lưu HCQT-TV-AC.
(120615/107/66131) Đã ký : Hùynh Đình Trí
Cập nhật bởi bluesky1984 ngày 09/06/2014 01:52:05 SA