Mới đây, Chính phủ vừa công bố hồ sơ đề nghị xây dựng dự án Nghị quyết của Quốc hội về giảm thuế giá trị gia tăng. Trong đó, đề xuất tiếp tục giảm thuế GTGT còn 8% từ 01/7/2024.
Đề xuất tiếp tục giảm thuế giá trị gia tăng còn 8% từ 01/7/2024
Ngày 28/5/2024 Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 81/NQ-CP về đề nghị xây dựng dự án Nghị quyết về giảm thuế giá trị gia tăng.
Qua đó, giao Bộ trưởng Bộ Tư pháp thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ ký Tờ trình của Chính phủ trong ngày 28/5/2024 để báo cáo Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội bổ sung dự án Nghị quyết về giảm thuế giá trị gia tăng vào Chương trình xây dựng Luật, pháp lệnh năm 2024 và cho phép xây dựng dự án Nghị quyết theo trình tự, thủ tục rút gọn, trình Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XV.
Bộ Tài chính có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ với Bộ Tư pháp và cung cấp đầy đủ hồ sơ, tài liệu liên quan cho Bộ Tư pháp theo quy định, bảo đảm tiến độ báo cáo các cơ quan của Quốc hội theo yêu cầu.
Xem thêm tại Nghị quyết 81/NQ-CP có hiệu lực từ ngày 28/5/2024.
Vừa mới đây, Chính phủ vừa công bố Dự thảo 1 Nghị quyết về giảm thuế giá trị gia tăng. Cụ thể, theo Điều 1 Dự thảo 1 Nghị quyết về giảm thuế giá trị gia tăng quy định như sau:
- Giảm 2% thuế suất thuế giá trị gia tăng, áp dụng đối với các nhóm hàng hóa, dịch vụ đang áp dụng mức thuế suất 10% (còn 8%), trừ một số nhóm hàng hóa, dịch vụ sau:
Viễn thông, công nghệ thông tin, hoạt động tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, kinh doanh bất động sản, sản xuất kim loại và sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn, ngành khai khoáng (không kể khai thác than), sản xuất than cốc, dầu mỏ tinh chế, sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất, các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.
- Thời gian áp dụng giảm thuế giá trị gia tăng 2% quy định tại khoản 1 Điều này từ ngày 01/7/2024 đến hết ngày 31/12/2024.
Hiện nay, mức thuế giá trị gia tăng đang áp dụng cũng là mức đã được giảm 2%, tức xuống còn 8% từ 01/01/2024 đến hết ngày 30/6/2024 theo Nghị quyết Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khoá XV được thông qua ngày 29/11/2023.
Như vậy, nếu Dự thảo 1 Nghị quyết về giảm thuế giá trị gia tăng được thông qua, từ ngày 01/7/2024 đến hết ngày 31/12/2024 (tức nửa cuối năm 2024) nước ta sẽ tiếp tục được áp dụng mức thuế giá trị gia tăng 8%.
Xem toàn văn Dự thảo 1 Nghị quyết về giảm thuế giá trị gia tăng: https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/05/29/du-thao-nghi-quyet-giam-thue-gia-tri-gia-tang.docx
Mức thuế suất 8% sẽ áp dụng cho đối tượng nào?
Theo Điều 8 Luật Thuế giá trị gia tăng 2008 (được sửa đổi bởi khoản 3 Điều 1 Luật thuế giá trị gia tăng sửa đổi năm 2013, Điều 1 Luật thuế giá trị gia tăng, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật quản lý thuế sửa đổi 2016, Điều 3 Luật sửa đổi các Luật về thuế 2014) và Nghị quy định về thuế suất thuế GTGT như sau:
1) Mức thuế suất 0%
Áp dụng đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu, vận tải quốc tế và hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế giá trị gia tăng quy định tại Điều 5 Luật Thuế giá trị gia tăng 2008 khi xuất khẩu, trừ các trường hợp sau:
- Chuyển giao công nghệ, chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ ra nước ngoài.
- Dịch vụ tái bảo hiểm ra nước ngoài;
- Dịch vụ cấp tín dụng;
- Chuyển nhượng vốn;
- Dịch vụ tài chính phái sinh;
- Dịch vụ bưu chính, viễn thông;
- Sản phẩm xuất khẩu quy định tại khoản 23 Điều 5 Luật Thuế giá trị gia tăng 2008.
Hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu là hàng hóa, dịch vụ được tiêu dùng ở ngoài Việt Nam, trong khu phi thuế quan; hàng hóa, dịch vụ cung cấp cho khách hàng nước ngoài theo quy định của Chính phủ.
2) Mức thuế suất 5%
Áp dụng đối với hàng hóa, dịch vụ sau đây:
- Nước sạch phục vụ sản xuất và sinh hoạt;
- Quặng để sản xuất phân bón; thuốc phòng trừ sâu bệnh và chất kích thích tăng trưởng vật nuôi, cây trồng;
- Dịch vụ đào đắp, nạo vét kênh, mương, ao hồ phục vụ sản xuất nông nghiệp; nuôi trồng, chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh cho cây trồng; sơ chế, bảo quản sản phẩm nông nghiệp;
- Sản phẩm trồng trọt,chăn nuôi, thủy sản chưa qua chế biến, trừ sản phẩm quy định tại khoản 1 Điều 5 Luật Thuế giá trị gia tăng 2008;
- Mủ cao su sơ chế; nhựa thông sơ chế; lưới, dây giềng và sợi để đan lưới đánh cá;
- Thực phẩm tươi sống; lâm sản chưa qua chế biến, trừ gỗ, măng và sản phẩm quy định tại khoản 1 Điều 5 Luật Thuế giá trị gia tăng 2008;
- Đường; phụ phẩm trong sản xuất đường, bao gồm gỉ đường, bã mía, bã bùn;
- Sản phẩm bằng đay, cói, tre, nứa, lá, rơm, vỏ dừa, sọ dừa, bèo tây và các sản phẩm thủ công khác sản xuất bằng nguyên liệu tận dụng từ nông nghiệp; bông sơ chế; giấy in báo;
- Thiết bị, dụng cụ y tế, bông, băng vệ sinh y tế; thuốc phòng bệnh, chữa bệnh; sản phẩm hóa dược, dược liệu là nguyên liệu sản xuất thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh;
- Giáo cụ dùng để giảng dạy và học tập, bao gồm các loại mô hình, hình vẽ, bảng, phấn, thước kẻ, com-pa và các loại thiết bị, dụng cụ chuyên dùng cho giảng dạy, nghiên cứu, thí nghiệm khoa học;
- Hoạt động văn hóa, triển lãm, thể dục, thể thao; biểu diễn nghệ thuật, sản xuất phim; nhập khẩu, phát hành và chiếu phim;
- Đồ chơi cho trẻ em; sách các loại, trừ sách quy định tại khoản 15 Điều 5 Luật Thuế giá trị gia tăng 2008;
- Dịch vụ khoa học, công nghệ theo quy định của Luật khoa học và công nghệ.
- Bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở xã hội theo quy định của Luật nhà ở
3) Mức thuế suất 10%
Áp dụng đối với hàng hóa, dịch vụ không thuộc trường hợp áp dụng thuế suất 0% và 5%.
Như vậy, mức thuế suất giá trị gia tăng 8% sẽ áp dụng với các nhóm hàng, dịch vụ đang áp dụng mức thuế suất giá trị gia tăng 10% mà được giảm 2% theo Nghị quyết.
Xem toàn văn Dự thảo 1 Nghị quyết về giảm thuế giá trị gia tăng: https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/05/29/du-thao-nghi-quyet-giam-thue-gia-tri-gia-tang.docx
Ai sẽ phải chịu thuế giá trị gia tăng?
Theo Điều 2 Luật Thuế giá trị gia tăng 2008 nêu định nghĩa về thuế GTGT như sau:
Thuế giá trị gia tăng là thuế tính trên giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
Theo đó, thuế giá trị gia tăng là thuế chỉ áp dụng dựa trên phần giá trị tăng thêm mà không phải dựa trên toàn bộ giá trị hàng hóa, dịch vụ. Trong đó, theo quy định tại Điều 4 Luật Thuế giá trị gia tăng 2008 thì:
Người nộp thuế giá trị gia tăng là tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng (sau đây gọi là cơ sở kinh doanh) và tổ chức, cá nhân nhập khẩu hàng hóa chịu thuế giá trị gia tăng (sau đây gọi là người nhập khẩu).
Tuy nhiên, thực tế thuế GTGT là loại thuế gián thu sẽ cộng vào giá bán hàng hóa, dịch vụ và do người tiêu dùng trả khi sử dụng sản phẩm đó.
Như vậy, người chịu thuế GTGT thực tế là người tiêu dùng nhưng người đóng thuế GTGT là các cơ sở kinh doanh.