Chào bạn Huỳnh Nhất Việt, mình xin giải đáp thắc mắc của bạn như sau:
Theo khoản 1 Điều 119 Bộ Luật Dân sự 2015, giao dịch dân sự được thể hiện qua các hình thức sau:
- Lời nói
- Văn bản
- Hành vi
- Phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật.
Do đó, hợp đồng viết tay của bạn hoàn toàn có cơ sở làm căn cứ về việc có xảy ra sự kiện vay tiền giữa hai người.
Nghĩa vụ trả lãi của người vay phải được thực hiện như trong hợp đồng vay viết tay, tuy nhiên nếu thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay.
Về vấn đề khởi kiện
Cho vay tiền là một giao dịch dân sự được quy định tại Điều 463 Bộ Luật Dân sự 2015:
“Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định."
Theo đó, người vay phải có nghĩa vụ hoàn trả cho bên cho vay, nếu không thực hiện nghĩa vụ thì người vay được xem là vi phạm hợp đồng.
Căn cứ khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định những tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án trong đó có tranh chấp về giao dịch dân sự, hợp đồng dân sự.
Theo nguyên tắc tố tụng, khi có tranh chấp hợp đồng vay tài sản, giải quyết trên cơ sở thỏa thuận, thương lượng giải quyết vấn đề.
Nếu không giải quyết được bạn được quyền khởi kiện nộp đơn tại tòa án nhân dân cấp huyện nơi bị đơn cư trú, các bên vẫn có quyền tự thỏa thuận về Tòa án nơi nguyên đơn cư trú có thẩm quyền giải quyết.
Do đó, bạn hoàn toàn có thể khởi kiện bên A với lí do vi phạm hợp đồng cho vay.
Có truy cứu hình sự với tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với trường hợp này được không?
Theo điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ Luật Hình sự 2015, các dấu hiệu phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” bị xử lí như sau:
“Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng… thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm:
- Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả".
Hình phạt tù của tội danh “Lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” có thể lên đến 20 năm khi tài sản chiếm đoạt có giá trị từ 200 triệu đến dưới 500 triệu.
Nếu bên A có dấu hiệu của tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” như cố tình lẩn trốn, có khả năng trả nợ nhưng dùng thủ đoạn gian dối để không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì bạn có thể nộp đơn tố giác tội phạm đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố để tố giác hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của bên A