Công ty TNHH thương mại sản xuất Gia Lợi kiện Cơ sở Thuận Lợi tranh chấp hợp đồng mua bán tổ máy đựng bao ống từ vải dệt PP/PE

Chủ đề   RSS   
  • #263271 22/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Công ty TNHH thương mại sản xuất Gia Lợi kiện Cơ sở Thuận Lợi tranh chấp hợp đồng mua bán tổ máy đựng bao ống từ vải dệt PP/PE

    Số hiệu

    87/2007/KDTM-PT

    Tiêu đề

    Công ty TNHH thương mại sản xuất Gia Lợi kiện Cơ sở Thuận Lợi tranh chấp hợp đồng mua bán tổ máy đựng bao ống từ vải dệt PP/PE

    Ngày ban hành

    10/09/2007

    Cấp xét sử

    Sơ thẩm

    Lĩnh vực

    Kinh tế

     

    Cơ sở Thuận Lợi là bị đơn kháng cáo, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh kháng nghị đề nghị không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn (Công ty Gia Lợi) kiện đòi Cơ sở Thuận Lợi phải thanh toán ngay số tiền đồng Việt Nam còn lại tương đương với 23.143,12 USD là có căn cứ. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay Cơ sở Thuận Lợi đồng ý thanh toán cho Công ty Gia Lợi ½ số tiền còn nợ theo hợp đồng là 11.571,56 USD và ½ số tiền còn lại Cơ sở Thuận Lợi dùng để khắc phục tình trạng máy in chồng màu không chính xác. Xét yêu cầu trên là chính đáng, đảm bảo quyền lợi của hai bên đương sự nên cần chấp nhận. 


    Bản án số:87/2007/KDTM-PT Ngày 10 tháng 9 năm 2007 V/v Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá

    Nguyên đơn: Công ty TNHH sản xuất và thương mại Gia Lợi.

    Bị đơn: Cơ sở Thuận Lợi

    NHẬN THẤY

    Ngày 26/9/2001, Công ty TNHH sản xuất và thương mại Gia Lợi (sau đây gọi tắt là Công ty Gia Lợi) và Cơ sở Thuận Lợi ký hợp đồng số 01/MBND/2001, với nội dung chủ yếu sau: Công ty Gia Lợi bán cho Cơ sở Thuận Lợi tổ máy đựng bao ống từ vải dệt PP/PE, giấy, mới 100%, chế tạo năm 2001, xuất xứ từ Trung Quốc, giá 149.000USD.

    Điều kiện thanh toán:

    Đợt 1. Ký quỹ 29.800USD sau khi ký hợp đồng;

    Đợt 2. Thanh toán 89.400USD trong vòng 03 ngày khi bên A (Công ty Gia Lợi) thông báo thiết bị đã nhập cảng thành phố Hồ Chí Minh.

    Đợt 3. Trả dứt 29.800 USD trong vòng 10 ngày kể từ ngày bên B (Cơ sở Thuận Lợi) đồng ý ký nghiệm thu máy theo phụ lục A, B, F (Phụ lục A: chi tiết thông số máy, phụ lục B: các yêu cầu khác về đặc tính kỹ thuật và thành phẩm, Phụ lục F: yêu cầu về nghiệm thu).

    Thực hiện hợp đồng:

    - Bên mua máy (Cơ sở Thuận Lợi), đã trả đủ 80% giá trị hợp đồng (đợt 1 và 2), đã cùng Công ty Gia Lợi sang Trung Quốc giám định thiết bị

    - Bên bán máy (Công ty Gia Lợi), đã giao và lắp đặt xong tại nhà máy bên mua.


    Theo Công ty Gia Lợi trình bày: Công ty đã hoàn thành nghĩa vụ cam kết trong hợp đồng, đã giải quyết toàn bộ các tồn tại trong biên bản ngày 27/2/2002, bên mua máy đã cùng ký tên trên Giấy tổng kết công tác chạy thử ngày 23/4/2002 với chuyên gia Trung Quốc và ngày 21/5/2002 Cơ sở Thuận Lợi và Công Ty Gia Lợi đã ký Biên bản giảm giá hợp đồng; Việc Cơ sở Thuận Lợi cho rằng máy in chồng màu không chính xác, yêu cầu Công ty Gia Lợi phải điều chỉnh máy, việc này cũng như các tiêu chuẩn kỹ thuật của máy không quy định trong hợp đồng, nên Công ty Gia Lợi không có trách nhiệm, yêu cầu Cơ sở Thuận Lợi phải thanh toán ngay số tiền còn thiếu theo hợp đồng số 01/MBND/ 2001 là 23.143USD.

    Cơ sở Thuận Lợi xác nhận còn nợ của Công ty Gia Lợi số tiền 23.143USD và xác nhận Công Ty Gia Lợi đã thực hiện đúng thỏa thuận theo biên bản ngày 21/5/2002. Tuy nhiên, khi in thử thì chồng màu không chính xác. Vì vậy Cơ sở Thuận Lợi không ký biên bản nghiệm thu. Cơ sở Thuận Lợi chỉ đồng ý thanh toán khoản tiền trên nếu Công ty Gia Lợi khắc phục được tình trạng máy in chồng màu không chính xác. Việc in phối màu phải theo đúng cuốn “Hướng dẫn sử dụng” do nhà sản xuất cung cấp.

    Tại bản án kinh tế sơ thẩm số 217/KTST ngày 25/8/2004 Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

    Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn buộc cơ sở Thuận Lợi thanh toán số tiền còn nợ theo hợp đồng số 01/MBND/2001 ngày 26/9/2001 số tiền 23.143,12 USD cho Công ty TNHH sản xuất và thương mại Gia Lợi.

    Việc thanh toán được thực hiện bằng tiền đồng Việt Nam với tỷ giá bán ra do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố ở thời điểm thanh toán.

    Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

    Ngày 31/8/2004 cơ sở Thuận Lợi có đơn kháng cáo yêu cầu xem xét lại bản án sơ thẩm.

    Tại bản án kinh tế phúc thẩm số 12/KTPT ngày 24/02/2005 Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định

    Áp dụng điều 275 Bộ luật tố tụng dân sự. Không chấp nhận đơn kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

    A- Buộc cơ sở Thuận Lợi thanh toán tiền còn nợ theo hợp đồng số 01/MBND/2001 ngày 26/9/2001 số tiền 23.143,12 USD cho Công ty TNHH sản xuất và thương mại Gia Lợi.

    Việc thanh toán được thực hiện bằng tiền đồng Việt Nam với tỷ giá bán ra do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố ở thời điểm thanh toán.

    Ngoài ra án phúc thẩm còn tuyên về mức án phí theo luật định.

    Tại bản án giám đốc thẩm số 09/2006/KDTM - GĐT ngày 07/12/2006 Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã quyết định:

    Hủy bản án kinh tế phúc thẩm số 12/KTPT ngày 24/02/2005 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử vụ án tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa số 01/MBND/2001 ngày 26/9/2001 giữa Công ty TNHH sản xuất và thương mại Gia Lợi và cơ sở Thuận Lợi.

    Giao hồ sơ vụ án cho Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thầm lại theo quy định của pháp luật.

    Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay:

    Đại diện của Cơ sở Thuận Lợi và luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Cơ sở Thuận Lợi trình bày: Nhận định của bản án sơ thẩm cho rằng đại diện Cơ sở Thuận Lợi đã sang Trung Quốc kiểm tra máy, đã ký vào giấy tổng kết công tác chạy thử ngày 23/4/2002 là đã nghiệm thu máy. Nhận định nêu trên là thiếu khách quan, bởi lẽ: Về hình thức các giấy này không có ký xác nhận của hai bên mua và bán. Tất cả các giấy ký xác nhận từ trước ngày 23/4/2001 mới chỉ chạy thử cho một màu; Biên bản ngày 21/5/2002, Công Ty Gia Lợi xác nhận in thử 3 màu không đạt và thỏa thuận nếu việc in thử nghiệm đạt kết quả hai bên sẽ tiến hành nghiệm thu máy theo hợp đồng. Với xác nhận này Công ty Gia Lợi đã khẳng định rằng đến ngày 21/5/2002 hai bên vẫn chưa ký nghiệm thu máy và sau đó cho đến nay Công ty Gia Lợi không có chứng cứ nào xác nhận việc in thử nghiệm 04 màu đã đạt tiêu chuẩn như trong sách” Hướng dẫn sử dụng máy đã ghi: .… in 4 màu chính xác không siêu vẹo (lệch), tỷ lệ thành phẩm lớn hơn 98%. Do đó, theo quy định tại khỏan 1 Điều 72 Luật Thương mại Cơ sở Thuận Lợi có quyền không thanh tóan cho Công ty Gia Lợi số tiền còn lại. Tòa án cấp sơ thẩm không tuyên buộc Công ty Gia Lợi gánh chịu chi phí sửa chữa máy là không phù hợp với tình tiết vụ án và quy định của pháp luật. Với thiện chí mong muốn giải quyết việc tranh chấp giữa hai bên kéo dài từ năm 2002 đến nay, Cơ sở Thuận Lợi đồng ý thanh tóan cho Công ty Gia Lợi ½ số tiền còn nợ theo hợp đồng số 01/MBND/2001 ngày 26/09/2001 là 11.571,56 USD, ½ số tiền còn lại Cơ sở Thuận Lợi dùng để khắc phục tình trạng máy in chồng màu không chính xác.

    Đại diện cho Công ty Gia Lợi và Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Công ty Gia Lợi đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.

    Đại diện Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm vẫn giữ nguyên nội dung kháng nghị số 58/QĐKN – KT ngày 03/9/2004 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Đề nghị chấp nhận kháng nghị nêu trên và kháng cáo của Cơ sở Thuận Lợi, sửa án sơ thẩm: Bác yêu cầu khởi kiện của Công ty Gia Lợi đòi Cơ sở Thuận Lợi phải thanh toán số tiền đồng Việt Nam tương đương 23.143,12 USD còn nợ theo hợp đồng số 01/MBND/2001 ngày 26/09/2001. Công ty Gia Lợi phải thực hiện cam kết trong việc in thử nghiệm 04 màu để hai bên tiến hành nghiệm thu.

    Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của các đương sự, các luật sư.

    XÉT THẤY

    Theo bản thuyết minh (do Công ty Gia Lợi cung cấp khi chào hàng bán) xác định tính năng kỹ thuật máy là” in 4 màu thông qua chỉnh cơ bản chênh lệch, tiện cho đối chiếu vị trí, chính xác in ấn” (tại điểm 3 Điều 2 mục V) và tại điểm 7 Điều 3 ghi “ thường xuyên quan sát tình trạng màu sắc 1, 2, 3, 4 và kịp thời thời xoay chuyển cơ cấu chênh lệch, in chuyển động chỉnh vị trí trang bị hướng ngang, làm cho chính xác màu sắc, không có hiện tượng thiên lệch”.

    Thực tế, ngay khi lắp đặt và thử nghiệm đã phát hiện máy do Công ty Gia Lợi bán cho Cơ sở Thuận Lợi không bảo đảm chất lượng như bản thuyết minh nêu trên và hợp đồng mà hai bên đã ký kết. Vì vậy nên ngày 27/2/2002 hai bên đã lập biên bản trong đó ghi nhận: Công ty Gia Lợi sẽ cung cấp bổ sung cho Cơ sở Thuận Lợi một số phụ tùng, đổi lại trục xâm lỗ không đạt yêu cầu và trục phụ trợ xâm lỗ kê dưới; Cơ sở Thuận Lợi cho biết khi sản xuất các loại bao khác in 04 màu chưa đạt yêu cầu, bị chồng màu, bị lem, chạy khoảng 10 cái thì bị chồng màu; Cơ sở Thuận Lợi đề nghị giữ lại 6000 USD trong số 29.800 USD còn lại, chờ Công ty Gia Lợi làm việc với Crt Guang Hua (Trung Quốc) giải quyết những vấn đề tồn đọng như: bồi thường máy vi tính và phế liệu.

    Tiếp theo ngày 21/5/2002 hai bên lập biên bản kiểm tra in phối màu và giải quyết tồn đọng của hợp đồng số 01/MBND/ 2001, các bên đều thừa nhận: Kết quả in thử vào ngày 20/5 và 21/5/2002 đều không đạt phối màu và Công ty Gia Lợi phải có nghĩa vụ khắc phục khiếm khuyết trên và nếu việc in thử nghiệm đạt kết quả, hai bên sẽ tiến hành nghiệm thu máy theo hợp đồng. Ngoài ra Công ty Gia Lợi cũng đồng ý bồi thường 1000 USD cho tiền phế liệu thử nghiệm và giảm giá hợp đồng là 5000 USD do không lắp đặt bộ vi tính.

    Để thực hiện thỏa thuận trên, vào ngày 02 tháng 10 và ngày 06/10/2002 chuyên gia Trung Quốc đã tiến hành in thử nghiệm 3 màu nhưng đều không chính xác, bị lệch nhiều.

    Từ những căn cứ nêu trên cho thấy: Công ty Gia Lợi đã giao máy không đúng Điều 1 của hợp đồng phần phụ lục A về chi tiết thông số máy (số lượng in 4 màu) và Điều 2 phụ lục B về yêu cầu khác về đặc tính kỹ thuật. Công ty Gia Lợi chưa thực hiện đầy đủ nghĩa vụ bảo hành của mình và chưa làm thủ tục lắp đặt và nghiệm thu theo Điều 3 v Điều 6 của hợp đồng.

    Phía Công ty Gia Lợi cho rằng đã thực hiện đúng hợp đồng, những thiếu sót của máy đã được khắc phục sửa chữa nn yêu cầu Cơ sở Thuận Lợi phải thanh toán ngay số tiền còn thiếu là chưa phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 72 của Luật thương mại quy định về: Quyền chưa thanh toán tiền mua hàng, người mua có quyền chưa thanh toán toàn bộ hoặc một phần tiền hàng, nếu khi nhận hàng phát hiện thấy hàng bị hư hỏng, có khuyết tật và chỉ thanh toán khi người bán khắc phục những hư hỏng, khuyết tật đó, trừ trường hợp trong hợp đồng có thỏa thuận khác. Đồng thời cũng trái với thỏa thuận trong hợp đồng về việc thanh toán số tiền cịn lại trong thời hạn 10 ngy kể từ ngy ký nghiệm thu my. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, Công ty Gia Lợi cũng thừa nhận hai bên chưa nghiệm thu về chất lượng in phối màu.

    Do đó, kháng cáo của Cơ sở Thuận Lợi và kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về việc đề nghị không chấp nhận yêu cầu của Công ty Gia Lợi kiện đòi Cơ sở Thuận Lợi phải thanh toán ngay số tiền đồng Việt Nam còn lại tương đương với 23.143,12 USD là có căn cứ. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay Cơ sở Thuận Lợi đồng ý thanh toán cho Công ty Gia Lợi ½ số tiền còn nợ theo hợp đồng số 01/MBND/2001 ngày 26/09/2001 là 11.571,56 USD và ½ số tiền còn lại Cơ sở Thuận Lợi dùng để khắc phục tình trạng máy in chồng màu không chính xác. Xét yêu cầu trên là chính đáng, đảm bảo quyền lợi của hai bên đương sự nên cần chấp nhận.

    Theo thông báo của Cơ quan thi hành án dân sự thành phố Hồ Chí Minh (công văn số 388/THA ngày 25/01/2007) và sự xác nhận của hai bên đương sự thì Cơ quan Thi hành án dân sự thành phố Hồ Chí Minh đã thu của Cơ sở Thuận Lợi số tiền 15.801, 89 USD để trả nợ cho Công ty Gia Lợi. Như vậy, Cơ sở Thuận Lợi đã trả dư cho Công ty Gia Lợi số tiền 4.230,33 USD (15.801, 89 USD - 11.571,56 USD), nay Công ty Gia Lợi phải cĩ trch nhiệm hoàn trả lại cho Cơ sở Thuận Lợi số tiền chênh lệch nêu trên. Riêng số tiền 4.718.159 đồng khấu trừ tài khoản Ngân hàng hiện vẫn do Cơ quan Thi hành án dân sự thành phố Hồ Chí Minh tạm giữ (Lệnh chuyển có số 00049 ngày 15/8/2005), nên Cơ quan Thi hành án dân sự thành phố Hồ Chí Minh lập thủ tục hoàn trả lại số tiền này cho Cơ sở Thuận Lợi.

    Về án phí:

    Công ty TNHH sản xuất và thương mại Gia Lợi phải chịu 7.140.000 đồng án phí kinh doanh – thương mại sơ thẩm.

    Công ty TNHH sản xuất và thương mại Gia Lợi được nhận lại toàn bộ tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền số 000956 ngày 06/12/2002 của Phòng thi hành án thành phố Hồ Chí Minh (nay là Cơ quan Thi hành án dân sự thành phố Hồ Chí Minh).

    Cơ sở Thuận Lợi phải chịu 7.140.000 đồng án phí kinh doanh – thương mại sơ thẩm. Nhưng theo thông báo của Cơ quan thi hành án dân sự thành phố Hồ Chí Minh (công văn số 388/THA ngày 25/01/2007) thì trong quá trình thi hành án trước đây Cơ quan thi hành án dân sự thành phố Hồ Chí Minh đã thu của Cơ sở Thuận Lợi số tiền 14.280.000 đồng án phí kinh doanh – thương mại sơ thẩm, nên nay Cơ sở Thuận Lợi được nhận lại số tiền án phí chênh lệch là 7.140.000 đồng.

    Cơ sở Thuận Lợi không phải chịu án phí kinh doanh – thương mại phúc thẩm.

    Vì các lẽ trên, căn cứ khoản 1 Điều 276 Bộ luật tố tụng dân sự.

    QUYẾT ĐỊNH

    Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của Cơ sở Thuận Lợi và một phần kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Sửa bản án sơ thẩm.


    1. Công ty TNHH sản xuất và thương mại Gia Lợi phải hoàn trả lại cho Cơ sở Thuận Lợi số tiền 4.230,33 USD.

    Việc thanh toán được thực hiện bằng tiền đồng Việt Nam với tỷ giá bán ra do Ngân hàng nhà nước Việt Nam công bố ở thời điểm thanh toán.

    Kể từ ngày bên được thi hành án có yêu cầu thi hành án, nếu bên phải thi hành án chưa thi hành xong khoản tiền trn thì hng thng bn phải thi hnh n còn phải chịu thm khoản tiền li theo mức li suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

    2. Hoàn trả cho Cơ sở Thuận Lợi số tiền 4.798.159 đồng hiện do Cơ quan Thi hành án dân sự thành phố Hồ Chí Minh tạm giữ (Lệnh chuyển có số 00049 ngày 15/8/2005).

    3. Về án phí:

    Công ty TNHH sản xuất và thương mại Gia Lợi phải chịu 7.140.000 đồng án phí kinh doanh – thương mại sơ thẩm.

    Công ty TNHH sản xuất và thương mại Gia Lợi được nhận lại toàn bộ tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền số 000956 ngày 06/12/2002 của Phòng thi hành án thành phố Hồ Chí Minh (nay là Cơ quan thi hành án dân sự thành phố Hồ Chí Minh).

    Cơ quan thi hành án dân sự thành phố Hồ Chí Minh hòan trả lại cho Cơ sở Thuận Lợi số tiền án phí kinh doanh – thương mại sơ thẩm chênh lệch là 7.140.000 đồng.

    Hoàn trả cho Cơ sở Thuận Lợi tiền tạm ứng án phí kinh doanh – thương mại phúc thẩm đã nộp tại biên lai thu số 004731 ngày 31/8/2004 của Thi hành án dân sự thành phố Hồ Chí Minh.

    Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. /.

     

    Cập nhật bởi phamthanhhuu ngày 22/05/2013 05:21:36 CH
     
    5133 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận