Bản án số:854/2007/KDTM-ST ngày 28-5-2007 về việc Tranh chấp hợp đồng mua bán
Ngày 28 tháng 5 năm 2007 tại phòng xử án của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số523/2006/TLST-KDTM ngày 01-8-2006 về tranh chấp hợp đồng mua bán theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số764/2007/QĐST-KDTM ngày 24-4-2007, giữa:
Nguyên đơn CÔNG TY TNHH CÔNG NGHIỆP TUNG SHIN
Địa chỉ 08 đường số 18, KCN Sóng Thần 2, H. Dĩ An, Bình Dương
Đại diện Ông Lee, Cheng-Hsuan
Ông Bùi Tá Dũng
GUQ số03/UQ-TS/2007 ngày 22-1-2007 (có mặt)
Bị đơn Ông Trần Văn Tân – Chủ Cửa hàng nhôm kiếng Minh Phát
Địa chỉ 211 -211A Trường Chinh, P. 12, Q. Tân Bình, TPHCM
ĐCLL 415 Trường Chinh, P12, quận Tân Bình, TPHCM
(vắng mặt)
NHẬN THẤY:
Trình bày của nguyên đơn :
Công Ty TNHH công nghiệp Tung Shin và ông Trần Văn Tân – Chủ Cửa hàng nhôm kiếng Minh Phát có quan hệ mua bán mặt hàng nhôm thanh định hình từ tháng 3/2002 với phương thức bán hàng theo hóa đơn và phiếu xuất kho. Việc thanh toán được thực hiện theo đợt mua hàng và trả tiền ngay sau khi nhận hàng nhưng ông Trần Văn Tân cố tình kéo dài thời hạn thanh toán số tiền còn thiếu cho Công Ty TNHH công nghiệp Tung Shin.
Biên bản ngày 14/2/2006 về việc đối chiếu công nợ từ ngày 01/1/2005 đến ngày 31/12/2005, xác định ông Tân còn nợ Công Ty TNHH công nghiệp Tung Shin tiền hàng là 20.021.600 đồng.
Công Ty TNHH công nghiệp Tung Shin đã nhiều lần yêu cầu ông Trần Văn Tân thanh toán nhưng ông Tân không thực hiện.
Đề nghị Tòa án xem xét giải quyết buộc ông Trần Văn Tân – Chủ Cửa hàng Minh Phát thanh toán cho Công Ty TNHH công nghiệp Tung Shin số tiền 23.118.691 đồng, gồm :
- Tiền hàng : 20.021.600 đồng
- Tiền lãi (tính từ 25/6/2005 đến 25/5/2006) :
20.021.600 x 1.03125%/tháng x15 tháng = 3.097.091 đồng
Trình bày của đại diện bị đơn:
Trong biên bản lấy lời khai ngày 11-4-2007 và ngày 15-5-2007, ông Trần Văn Tân – Chủ Cửa hàng nhôm kiếng Minh Phát trình bày:
Cửa hàng Minh Phát và Công ty TNHH Công nghiệp Tung Shin giao dịch mua bán mặt hàng nhôm từ năm 2002 với phương thức bán hàng theo hóa đơn và phiếu xuất kho.
Mọi giao dịch với Công ty đều thông qua ông Trần (giám đốc) và ông Vỹ (nhân viên tiếp thị). Khi công nợ còn khoảng 40 triệu đồng thì ông Trần hứa sau khi trả được 20.000.000 đồng thì sẽ miễn cho số nợ còn lại. Nhưng sau đó có nhân viên công ty không rõ tên đề nghị xác nhận số nợ 20.021.600 đồng để công ty xem xét việc miễn giảm nhưng rồi lại kiện đòi nợ.
XÉT THẤY:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
1- Về quan hệ tranh chấp, thẩm quyền giải quyết vụ kiện:
Nội dung tranh chấp giữa Công ty TNHH công nghiệp Tung Shin và ông Trần Văn Tân – chủ Cửa hàng nhôm kiếng Minh Phát là quan hệ mua bán mặt hàng nhôm thanh định hình. Đây là tranh chấp về kinh doanh thương mại. Căn cứ vào Điều 29 và Điều 34 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh thụ lý và giải quyết là phù hợp quy định của pháp luật về thẩm quyền.
Triệu tập đương sự
Ông Trần Văn Tân – chủ Cửa hàng nhôm kiếng Minh Phát có trụ sở đăng ký tại 211 -211A Trường Chinh, Phường 12, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh đã được Tòa án giao trực tiếp giấy triệu tập hòa giải và xét xử theo qui định nhưng đều vắng mặt không rõ lý do. Phiên tòa xét xử tổ chức lần thứ 2 vào lúc 14 giờ 00 ngày 28-5-2007, cho đến 15 giờ 00 chỉ có đại diện nguyên đơn. Căn cứ khoản 2 Điều 200 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định phiên tòa v��n tiến hành xét xử.
2. Về yêu cầu của nguyên đơn :
- Về yêu cầu đòi tiền hàng 20.021.600 đồng. Hội đồng xét xử có nhận định như sau : Đây là số tiền mua bán hàng hóa chưa thanh toán đã được các bên xác nhận trong bảng đối chiếu công nợ khách hàng ngày 14-2-2006. Việc ông Trần Văn Tân – chủ Cửa hàng nhôm kiếng Minh Phát trình bày giám đốc Công ty TNHH công nghiệp Tung Shin có hứa miễn giảm số nợ này nhưng không có chứng cứ chứng minh việc hứa và cũng không được nguyên đơn xác nhận lới hứa nên không có cơ sở để xem xét. Vì vậy, yêu cầu của nguyên đơn đòi bị đơn thanh toán số nợ đã được các bên xác định và lập thành văn bản là chính đáng, có cơ sở được chấp nhận.
- Về yêu cầu đòi tiền lãi phát sinh do chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán là 3.097.091 đồng, thời hạn tính từ 14-2-2006 đến 14-5-2007, mức 1,03125%/tháng. HĐXX có nhận định như sau : Bảng đối chiếu công nợ khách hàng lập ngày 14-2-2006 các bên đã xác định số nợ ông Tân phải trả cho Công ty TNHH công nghiệp Tung Shin. Do ông Tân không thực hiện nghĩa vụ thanh toán nên căn cứ qui định tại Điều 306 của Luật thương mại có hiệu lực kể từ ngày 01-01-2006, ông Tân phải chịu lãi phạt chậm thanh toán. Xem xét thời hạn tính và mức tính mà nguyên đơn áp dụng, Hội đồng xét xử cho rằng yêu cầu đòi tiền lãi của nguyên đơn là chính đáng, có cơ sở được chấp nhận.
3.Về án phí
Căn cứ Nghị định 70/CP ngày 12/6/1997 của Chính phủ qui định về án phí, lệ phí tòa án.
- Ông Trần Văn Tân – chủ Cửa hàng nhôm kiếng Minh Phát phải chịu án phí trên số tiền phải thanh toán cho nguyên đơn gồm tiền hàng còn nợ và lãi phát sinh, cụ thể :
20.021.600 đồng + 3.097.091 đồng = 23.118.691 đồng
- Công ty TNHH công nghiệp Tung Shin không phải chịu án phí nên được nhận lại toàn bộ tạm ứng án phí đã nộp.
Từ các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ khoản 1 phần III Thông tư liên tịch số 01-TT/LT ngày 19 tháng 6 năm 1997 của Tòa án nhân dân tối cao -Viện Kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ Tư pháp - Bộ Tài chính hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản,
1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn
Ông Trần Văn Tân – chủ Cửa hàng nhôm kiếng Minh Phát có trách nhiệm thanh toán cho Công ty TNHH công nghiệp Tung Shin số tiền 23.118.691 đồng, gồm :
- Nợ tiền hàng 20.021.600 đồng
- Lãi phát sinh 3.097.091 đồng
2. Về án phí:
Ông Trần Văn Tân – chủ Cửa hàng nhôm kiếng Minh Phát phải chịu án phí là 1.155.000 đồng.
Công ty TNHH công nghiệp Tung Shin không phải chịu án phí nên được nhận lại 538.393 đồng, là tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền số 002615 ngày 21-7-2006 của Thi hành án dân sự thành phố Hồ Chí Minh.
Việc thi hành án được thực hiện tại Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khỏan tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khỏan tiền, hàng tháng, bên phải thi hành án còn phải chịu khỏan tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước qui định tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng các đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì tính từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc được niêm yết.
|