Công ty điện tử công nghiệp khởi kiện Trung tâm y tế huyện Thanh Trì yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng mua bán trang thiết bị y tế

Chủ đề   RSS   
  • #263473 23/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Công ty điện tử công nghiệp khởi kiện Trung tâm y tế huyện Thanh Trì yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng mua bán trang thiết bị y tế

    Số hiệu

    124/2006/KDTM-ST

    Tiêu đề

    Công ty điện tử công nghiệp khởi kiện Trung tâm y tế huyện Thanh Trì yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng mua bán trang thiết bị y tế

    Ngày ban hành

    28/12/2006

    Cấp xét sử

    Sơ thẩm

    Lĩnh vực

    Kinh tế

     

    Hội đồng xét xử nhận định: Cần chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, buộc bị đơn phải tiến hành nhận 12 máy siêu âm Toshiba hiệu Famio5-SSA-510A và 12 máy nghe tim thai Doppler FD390 với số serial đã được chỉ dẫn trong các giấy chứng nhận xuất xứ và chứng nhận chấp lượng kèm theo, tiếp tục thanh toán cho nguyên đơn đủ 67% trị giá hợp đồng tiếp theo. Hợp đồng quy định việc bảo hành thiết bị, chạy thử, các bên tiếp tục thực hiện như hợp đồng đã ký.


    Bản án số: 124/2006/KDTM-ST ngày: 28.12.2006  v/v tranh chấpHợp đồng mua bán

    Trong các ngày 26, 27, 28 tháng 12 năm 2006, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số82/2006/TLST-KDTM ngày 02 tháng 10 năm 2006 về Tranh chấp hợp đồng mua bán theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 176/KDTM/QĐXX-ST ngày 13 tháng 12 năm 2006 giữa các đương sự:

    Nguyên đơn: Công ty điện tử công nghiệp

    Trụ sở: 444 Bạch Đằng, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.

    Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn:

    Ông Nguyễn Huy Bách - cán bộ Công ty theo giấy uỷ quyền số28/2006/ĐTCN-CNC ngày 28.8.2006 của giám đốc Công ty.

    Bị đơn: Trung tâm y tế huyện Thanh Trì

    Trụ sở: thị trấn Văn Điển, huyện Thanh Trì, Hà Nội.

    Người đại diện hợp pháp của bị đơn:

    Bà Nguyễn Thị Thường - giám đốc Trung tâm

    Nhận thấy

    1. Tại đơn khởi kiện và tại các lời khai, nguyên đơn - Công ty điện tử công nghiệp trình bày:

    Ngày 06.12.2005, nguyên đơn ký hợp đồng kinh tế số 01/2005/HĐKT/ĐTCN-CNC-YTTT với bị đơn - Trung tâm y tế huyện Thanh Trì. Tiếp đến ngày 10.01.2006 hai bên ký biên bản bổ sung hợp đồng kinh tế số 01/2005/HĐKT/ĐTCN-CNC-YTTT sửa đổi thời hạn giao hàng vào ngày 08.3.2006. Theo nội dung hợp đồng kinh tế số 01, nguyên đơn cung cấp cho bị đơn 05 loại thiết bị y tế với tổng trị giá 4.116.000.000 đồng (đã bao gồm thuế nhập khẩu, thuế VAT và các chi phí).

    Do bị đơn vi phạm nghĩa vụ nhận hàng nên nguyên đơn đề nghị Toà án buộc bị đơn phải nhận hàng để thanh quyết toán hợp đồng. Đồng thời, bị đơn phải bồi thường những thiệt hại về kinh tế cho nguyên đơn và phải chịu lãi số tiền chậm trả.

    Đối với yêu cầu phản tố của bị đơn, nguyên đơn không chấp nhận. Cụ thể đối với 12 máy siêu âm, nguyên đơn đã cung cấp giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá của chính Toshiba theo đúng hồ sơ thầu và hợp đồng. Đối với 12 máy nghe tim thai, có cấu hình như đã nêu trong catalog do nhà cung cấp cho Công ty đưa ra. Nguyên đơn không vi phạm về thời gian, nghĩa vụ giao hàng.

    Ngoài ra, nguyên đơn còn có 02 yêu cầu khác trong đơn khởi kiện là đề nghị Toà án cho áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, buộc bị đơn giao lại 02 máy siêu âm nguyên đơn đang gửi ở kho bị đơn để nguyên đơn bảo quản với điều kiện bị đơn phải chịu chi phí kiểm tra, giám định, chạy thử, sửa chữa hỏng hóc nếu có. Đề nghị cho kiểm tra đối chiếu 12 máy nghe tim thai với catalogue gốc của nhà sản xuất để buộc bị đơn nhận máy.

    Tuy nhiên, quá trình Toà án giải quyết vụ kiện, nguyên đơn rút 02 yêu cầu trên. Còn lại chỉ yêu cầu bị đơn phải nhận nốt 02 mặt hàng còn lại của hợp đồng như nêu trên và thanh quyết toán hợp đồng.

    2. Bị đơn - Trung tâm y tế huyện Thanh Trì xác nhận nội dung và quá trình ký và thực hiện hợp đồng như nguyên đơn nêu là đúng.

    Phía Trung tâm đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nhận hàng như quy định: các hàng hoá có đủ điều kiện nghiệm thu đã được Trung tâm nghiệm thu và tiếp nhận. Trung tâm chỉ chưa nghiệm thu và tiếp nhận những hàng hoá chưa đủ điều kiện nghiệm thu, đó là:

    - 12 máy siêu âm đen trắng xách tay, trên máy không ghi "Made in Japan". Các tài liệu do nguyên đơn cung cấp chưa đủ khẳng định xuất xứ của máy như quy định tại hợp đồng cũng như hồ sơ thầu đã được phê duyệt.

    - 12 máy nghe tim thai cấu hình không đúng quy định như hợp đồng và hồ sơ thầu. Bị đơn không chấp nhận đính chính cấu hình của nhà phân phối Nippon do nguyên đơn đưa ra, vì không phù hợp với hợp đồng. Bị đơn đã xin ý kiến chỉ đạo của cơ quan cấp trên là Sơ Y tế Hà Nội. Sở Y tế cũng đã chỉ đạo bị đơn xem xét và tiếp nhận máy nhưng do nguyên đơn thông báo đã nộp đơn khởi kiện nên bị đơn không làm việc với nguyên đơn nữa.

    Do nguyên đơn vi phạm nghĩa vụ giao hàng nên bị đơn cũng có yêu cầu phản tố đề nghị Toà án buộc nguyên đơn phải chịu phạt vi phạm nghĩa vụ giao hàng; chi phí bị đơn thuê tư vấn thuê bảo vệ trông kho, tổng số tiền 285.026.000 đồng.

    Bị đơn vẫn đề nghị Toà án buộc nguyên đơn phải cung cấp cho bị đơn chứng chỉ xuất xứ và chứng chỉ chất lượng có giá trị pháp lý của 12 máy siêu âm để bị đơn nghiệm thu nhận hàng. Đối với 12 máy nghe tim thai nguyên đơn phải giao máy có cấu hình quy định đúng với hợp đồng và hồ sơ thầu. Trường hợp nguyên đơn chỉ giao máy có 01 đầu dò, không có bộ biến năng, bị đơn đề nghị Toà án huỷ kết quả đấu thầu, tuyên hợp đồng vô hiệu do nguyên đơn đã lừa dối khi ký hợp đồng. Đồng thời xử lý thích đáng hành vi lừa dối khách hàng của nguyên đơn.

    3. Tại phiên toà hôm nay:

    Nguyên đơn giữ yêu cầu Toà án giải quyết buộc bị đơn nhận 12 máy siêu âm và 12 máy nghe tim thai, yêu cầu bị đơn chịu phạt 8% trị giá phần hợp đồng bị vi phạm là 274.560.000 đồng, chịu lãi chậm thanh toán 1,5%/tháng từ ngày 23.8.2006 đến ngày 23.12.2006 là 105.000.000 đồng.

    Bị đơn cũng giữ các yêu cầu sau:

    - Đối với máy siêu âm: giấy chứng nhận xuất xứ do nhà sản xuất Toshiba phát hành, có xác nhận chữ ký của phòng Thương mại công nghiệp Tokyo, giấy chứng nhận xuất xứ do phòng Thương mại công nghiệp Singapore - Trung Quốc cấp và các công văn tái khẳng định của nhà sản xuất Toshiba và phòng Thương mại công nghiệp Tokyo mà nguyên đơn cung cấp không phải là tài liệu có căn cứ pháp lý để xác định máy có xuất xứ từ Nhật Bản. Bị đơn chỉ chấp nhận chứng nhận xuất xứ do phòng Thương mại công nghiệp Nhật Bản cấp và giấy chứng nhận xuất xứ của phòng Thương mại công nghiệp Singapore - Trung Quốc cấp có đóng dấu "cấp sau".

    - 12 máy nghe tim thai bị đơn cho rằng "bộ biến năng" và "đầu dò" là 02 thiết bị khác nhau trong "cấu hình quy định của máy". Do đó, nguyên đơn phải giao lại máy đúng như vậy thì bị đơn mới nhận và phù hợp với hợp đồng.

    - Bị đơn vẫn giữ yêu cầu tuyên huỷ hợp đồng, nguyên đơn phải bồi thường thiệt hại như đã nêu tại đơn phản tố và đề nghị xử lý hành vi lừa dối để trung thầu của nguyên đơn.

    xét thấy

    Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

    1. Công ty điện tử công nghiệp là doanh nghiệp hạch toán độc lập, do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định thành lập. Công ty có chức năng kinh doanh trang thiết bị, vật tư y tế theo giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 110782 ngày 29.5.1993 (thay đổi ngày 26.5.2004) của Sở Kế hoạch và đầu tư thành phố Hà Nội.

    Trung tâm y tế huyện Thanh Trì là đơn vị sự nghiệp có thu thuộc Sở Y tế Hà Nội quản lý theo quyết định3488/QĐ-UB ngày 31.8.1998 của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội.

    Ngày 06.12.2005, Công ty điện tử công nghiệp và Trung tâm y tế huyện Thanh Trì có ký hợp đồng mua bán số 01/2005/HĐKT/ĐTCN-CNC-YTTT về việc mua bán trang thiết bị y tế. Quá trình thực hiện hợp đồng đến ngày 08.3.2006 là ngày giao hàng, hai bên phát sinh tranh chấp.

    Đến ngày 01.9.2006, Công ty điện tử công nghiệp có đơn khởi kiện Trung tâm y tế huyện Thanh Trì tại Toà án Hà Nội để giải quyết tranh chấp.

    Căn cứ các quy định tại điểm a khoản 1 Điều 29; điều 33, 35, 159 Bộ luật tố tụng dân sự. Nghị quyết số 01/2005 của Hội đồng Thẩm phán của Toà án nhân dân tối cao thì tranh chấp thuộc thẩm quyền của Toà Kinh tế Toà án Hà Nội và vụ kiện còn thời hiệu khởi kiện.

    2. Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và yêu cầu phản tố của bị đơn, thấy:

    Như trên đã nêu, ngày 06.12.2005 nguyên đơn và bị đơn có ký hợp đồng mua bán số 01/2005/HĐKT/ĐTCN-CNC-YTTT về việc nguyên đơn bán cho bị đơn 05 loại trang thiết bị y tế với tổng trị giá 4.116.000.000 đồng (đã bao gồm thuế và chi phí). Kèm theo hợp đồng có phụ lục số 01 quy định cụ thể ký mã hiệu, chất lượng, xuất xứ và các tiêu chuẩn kỹ thuật từng loại hàng, phù hợp hồ sơ thầu được duyệt.

    Hợp đồng được ký trên cơ sở nguyên đơn đã trúng thầu "gói thầu cung cấp thiết bị y tế cho Trung tâm y tế huyện Thanh Trì" do bị đơn - Trung tâm y tế huyện Thanh Trì làm chủ đầu tư theo quyết định phê duyệt kết quả đấu thầu số1837/QĐ-UB của Uỷ ban nhân dân huyện Thanh Trì ngày 05.12.2006.

    Theo hợp đồng 01 quy định thời gian giao hàng chậm nhất là ngày 25.12.2006. Nhưng đến ngày 10.01.2006 các bên ký biên bản bổ sung hợp đồng quy định thời gian giao hàng trước ngày 08.3.2006 và có quy định cụ thể trách nhiệm của các bên trong trường hợp có vi phạm trong quá trình thực hiện hợp đồng.

    Theo điều khoản về thanh toán của hợp đồng thì sau khi ký hợp đồng bị đơn phải tạm ứng cho nguyên đơn 30% trị giá hợp đồng, 67% được thanh toán khi hai bên ký biên bản nghiệm thu bàn giao trong vòng 15 ngày, 3% còn lại sẽ được thanh toán sau thời gian bảo hành (12 tháng kể từ ngày bàn giao thiết bị) nếu nguyên đơn đảm bảo đầy đủ yêu cầu của công tác bảo hành.

    3. Quá trình thực hiện hợp đồng, ngày 20.01.2006 bị đơn đã chuyển cho nguyên đơn số tiền 1.234.000.000 đồng (thiếu 800.000 đồng) tạm ứng 30% theo Điều 1 hợp đồng (và Điều 1 bản bổ sung hợp đồng). Đến ngày 06.3.2006 hai bên bàn giao 03 trong số 05 mặt hàng của hợp đồng là máy xét nghiệm nước tiểu, kính hiển vi điện tử 02 mắt và 04 bộ dụng cụ xét nghiệm thực phẩm. Đến nay các bên không có tranh chấp gì về 03 mặt hàng này. Trị giá 03 mặt hàng này là 684.000.000 đồng gồm 3% là 20.520.000 đồng. Còn lại 12 máy siêu âm Toshiba, do bị đơn chưa tiếp nhận với lý do bị đơn đã nêu trên nên hai bên ký "giấy xác nhận gửi hàng" ngày 08.3.2006. Theo đó, nguyên đơn gửi nhờ máy vào kho bị đơn để chờ hoàn tất thủ tục kiểm định chất lượng và xuất xứ máy và bị đơn chịu trách nhiệm việc này. Còn 12 máy nghe tim thai hiện nguyên đơn vẫn đang quản lý.

    4. Đối với hai loại máy chưa được các bên thực hiện nghiệm thu bàn giao như đã nêu trên thì:

    4.1. Theo hợp đồng và phụ lục quy định nguyên đơn phải cho bị đơn 12 máy siêu âm đa chức năng đen trắng xách tay do hãng Toshiba - Nhật Bản sản xuất, là hàng mới 100%, sản xuất năm 2005, hiệu Famio5-SSA-510A, có chứng chỉ xuất xứ và chứng chỉ chất lượng kèm theo. Theo hồ sơ thầu được phê duyệt, tại điểm mục A.II.3, trong phần I.C quy định "Các thiết bị dự thầu phải được sản xuất tại chính quốc, do các hãng có uy tín trên thế giới sản xuất, có chứng chỉ xuất xứ của chính hãng".

    Như trên đã nêu 12 máy siêu âm hiện đang được để tại kho bị đơn. Tại phiên toà hôm nay bị đơn xác nhận thiết bị hiện được nguyên đơn niêm phong các bao bì đóng gói và chìa khoá ngoài kho do bị đơn quản lý. Bị đơn cũng công nhận đã được nguyên đơn cung cấp các tài liệu gồm chứng nhận chất lượng hàng hoá và giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá ngày 16.02.2006 của nhà sản xuất Toshiba, được phòng Thương mại công nghiệp Tokyo xác nhận chữ ký của đại diện tập đoàn Toshiba, cùng chứng chỉ xuất xứ gia công số 11996 do phòng Thương mại công nghiệp Singapore - Trung Quốc phát hành ngày 29.3.2006. Tuy nhiên, bị đơn trình bày do chứng nhận xuất xứ và chất lượng không phải do phòng Thương mại công nghiệp Nhật Bản cấp và chứng nhận của phòng Thương mại công nghiệp Singapore - Trung Quốc không có dấu "cấp sau" nên các tài liệu này không đủ căn cứ xác định máy siêu âm có xuất xứ từ Nhật Bản. Bị đơn còn không công nhận các tài liệu do phòng Thương mại công nghiệp Tokyo và tập đoàn Toshiba tái khẳng định xuất xứ của máy. Đó là văn bản ngày 31.3.2006, ngày 14.7.2006 và ngày 27.10.2006 của tập đoàn Toshiba, văn bản ngày 07.9.2006 và ngày 09.11.2006 của phòng Thương mại công nghiệp Tokyo.

    Thấy rằng đúng là giấy chứng nhận xuất xứ số A031026 và giấy chứng nhận số lượng chất lượng số A031027 cùng ngày 16.02.2006 do đại diện tập đoàn Toshiba ký, còn phòng Thương mại công nghiệp Tokyo chỉ xác nhận chữ ký của người đại diện tập đoàn Toshiba. Đây hoàn toàn đúng là "giấy chứng nhận xuất xứ của chính hãng". Theo quy định tại điểm 4.C mục III Thông tư liên tịch số 09/2000 ngày 17.4.2000 của Bộ Thương mại và Tổng cục Hải quan thì 02 tài liệu trên là hoàn toàn phù hợp với quy định của Thông tư. Hơn nữa, tại văn bản ngày 27.10.2006 của tập đoàn Toshiba đã khẳng định lần nữa (trước đó có văn bản ngày 14.7.2006) rằng lô máy được xác định tại giấy chứng nhận số A031026 và A031027 đúng là do họ sản xuất và lắp ráp tại chính nhà máy của họ ở Nhật Bản. Và văn bản ngày 09.11.2006 của phòng Thương mại công nghiệp Tokyo cũng khẳng định chữ ký trên các giấy chứng nhận đúng là của đại diện tập đoàn Toshiba ký (các tài liệu tái khẳng định đã viện dẫn trên là tài liệu tham khảo).

    Mặt khác, tại công văn số2524/PTM-PC ngày 30.8.2006 của phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam đã trả lời (theo yêu cầu của cả hai bên): "Việc nhà sản xuất (Toshiba Medical System Corporation) xác nhận hệ thống chuẩn đoán siêu âm Toshiba có xuất xứ tại Nhật Bản và được phòng Thương mại công nghiệp Tokyo xác nhận chữ ký, là căn cứ để xác định Toshiba sản xuất và lắp ráp sản phẩm này…". Trả lời của phòng Thương mại công nghiệp Việt Nam căn cứ trên các quy đ��nh của luật pháp Nhật Bản, nó không có xung đột pháp luật với các quy định của Thông tư 09 nêu trên.

    Đối với giấy chứng nhận xuất xứ, gia công số 11996 do phòng Thương mại công nghiệp Singapore - Trung Quốc phát hành, thấy tài liệu này cũng như giấy chứng nhận số A031026 và A031027 đều do nhà xuất khẩu nước ngoài (Gold Lite Co-Ltd Singapore) cung cấp cho nguyên đơn, cùng các giấy tờ khác, kèm theo vận đơn hàng xuất từ Singapore sang Việt Nam, mà nguyên đơn nhận khi người xuất khẩu giao hàng. Chứng nhận xuất xứ/gia công số 11996 nêu đúng ký mã hiệu 12 máy siêu âm đã được nêu tại giấy chứng nhận số A031026 và A031027 nêu trên. Và đúng như Gold Lite Co Ltd giải thích tài liệu này để chứng minh hành trình vận tải của hàng hoá. Tuy nhiên, nội dung giấy chứng nhận cũng khẳng định người/cơ quan phát hành tài liệu này "có bằng chứng thoả mãn rằng hàng hoá có xuất xứ được chế tạo tại nước sản xuất ở mục 7", và mục 7 có ghi "nước xuất xứ của hàng hoá: Nhật Bản".

    Về giấy chứng nhận chất lượng số A031027:

    Tại hồ sơ thầu (mời và dự thầu) được phê duyệt, tiểu mục AII3 phần I.C quy định: "Có chứng chỉ xuất xứ của chính hãng" và "thiết bị phải đảm bảo mới 100%". Tuy nhiên, điều 3.b.3 quy định: "… cung cấp chứng chỉ chất lượng hàng hoá cho bên A". Giấy chứng nhận số A31027 chính là giấy chứng nhận chất lượng và số lượng, có nêu cụ thể số mã hiệu (serial) của 12 chiếc máy, phù hợp nội dung và hình thức như giấy số A031026.

    Mặt khác, sau khi gửi hàng ngày 08.3.2006, ngày 14.4.2006, Vinacontrol Hà Nội có chứng thư giám định số 0288 xác định lô máy siêu âm 12 chiếc có số serial như trên tại các giấy chứng nhận số A031026, A031027 và 11996 là hàng mới 100%. Việc giám định này trên cơ sở đề nghị của nguyên đơn (việc này lẽ ra bị đơn phải chịu trách nhiệm về thủ tục như nêu tại biên bản gửi hàng), và bị đơn phải đồng ý mở khoá kho theo chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân huyện. Bị đơn cũng được chứng kiến việc giám định ngày 08.4.2006 - như tài liệu bị đơn đã công nhận.

    Phía bị đơn trình bày không biết việc giám định được tiến hành khi nào, do ai, và bên nguyên đơn tự mở kho… là mâu thuẫn với các tài liệu trên nên không có cơ sở chấp nhận.

    Từ phân tích trên thấy lập luận của bị đơn cho rằng các tài liệu nguyên đơn cung cấp không đủ căn cứ xác định 12 máy siêu âm xuất xứ từ Nhật Bản và chưa được xác định chất lượng, là không có cơ sở chấp nhận. Do đó, cần buộc bị đơn phải tổ chức tiếp nhận 12 máy siêu âm đen trắng xách tay Toshiba loại Famio5-SSA-510A nên tại phụ lục hợp đồng 01 giữa hai bên; đồng thời, phải thanh toán cho nguyên đơn 67% giá trị của máy, theo cam kết trong hợp đồng.

    4.2. Về 12 máy nghe tim thai:

    a) Theo hồ sơ thầu được phê duyệt và hợp đồng nguyên đơn bán cho bị đơn 12 máy nghe tim thai Doppler FD390 của nhà sản xuất Toitu Nhật Bản ghi cấu hình tiêu chuẩn gồm máy chính kèm 01 đầu dò 2,5M2, bộ biến năng, giá đỡ đầu dò, dây dẫn điện… theo catalogue của hãng do nhà phân phối được chỉ định của hãng là Nipon Coporation cung cấp cho nguyên đơn nộp theo hồ sơ mời thầu. Bị đơn cũng xác nhận có nhận được catalogue gốc của nhà sản xuất Toitu.

    Quy định như trên là có thêm "đầu dò tần số 2,5MHz" so với hồ sơ mời thầu của bị đơn. Theo bị đơn trình bày, sau khi bị đơn đã phát hành hồ sơ mời thầu thì ngày 04.11.2005 Sở Y tế gửi công văn số2180/SYT-KHTCKT ngày 01.11.2005 yêu cầu bị đơn bổ sung chi tiết nêu trên. Việc bổ sung này được các nhà thầu, gồm cả nguyên đơn chấp nhận.

    Cũng theo bị đơn, do ngày 12.4.2006 bị đơn nhận được thông báo của nguyên đơn về việc nhà phân phối Nipon có văn bản ngày 06.3.2006 đính chính cấu hình là "không có bộ biến năng 01 cái" vì đó chính là đầu dò tần số 2,5MHz. Như vậy là không phù hợp với hồ sơ thầu đã được phê duyệt nên bị đơn không đồng ý nhận máy.

    b) Thấy rằng:

    - Tại hồ sơ mời thầu, bị đơn đưa ra "cấu hình tiêu chuẩn" cho máy nghe tim thai Doppler do hãng của các nước công nghiệp phát triển sản xuất gồm "máy chính, bộ biến năng, dây dẫn…". Nhưng đến ngày 07.11.2005 bị đơn lại có yêu cầu bổ sung "cấu hình tiêu chuẩn" là có "đầu dò tần số 2,5MHz và đã được các nhà thầu đưa vào hồ sơ dự thầu.

    Bị đơn có nêu việc bổ sung này theo chỉ đạo của Sở Y tế Hà Nội. Nhưng phải thấy rằng, như bị đơn đã công nhận, bị đơn đã nhận được catalogue của nhà sản xuất, do đó bị đơn hoàn toàn có đủ điều kiện kiểm tra các thông số được chỉ dẫn trên catalogue (thông qua chính tư vấn của bị đơn). Nhưng bị đơn lại cho rằng trách nhiệm xác định các chỉ dẫn thông số trên catalogue chỉ thuộc về nguyên đơn, như vậy là không thể chấp nhận được. Hơn nữa, bị đơn còn khẳng định (tại phiên toà) "bộ biến năng" và "đầu dò" là hai chi tiết khác nhau. Như vậy, không đúng với chỉ dẫn trên catalogue của nhà sản xuất Toito đối với máy Doppler FD390 đã đưa vào hợp đồng.

    - Trên cơ sở thông báo của bị đơn về việc bổ sung cấu hình ngày 07.11.2005 như nêu trên, nguyên đơn đã thực hiện bổ sung theo đúng yêu cầu của hồ sơ mời thầu. Tuy nhiên, do lỗi của bị đơn (kể cả nguyên đơn) là không kiểm tra đầy đủ các tài liệu (catalogue) kèm theo hồ sơ thầu như catalogue, bản dịch tài liệu khác của đại lý cung cấp (Nippon) theo uỷ nhiệm của nhà sản xuất nên đã đưa ra yêu cầu bổ sung cấu hình và đưa vào phụ lục hợp đồng về "cấu hình tiêu chuẩn" máy nghe tim thai có cả "đầu dò" 2,5MHz và cả "bộ biến năng". Như vậy, là thừa ra so với "cấu hình tiêu chuẩn" theo catalogue do nhà sản xuất giới thiệu. Lập luận của bị đơn khẳng định "bộ biến năng" và "đầu dò" là hai bộ phận riêng biệt để đưa ra quan điểm buộc nguyên đơn phải giao hàng theo đúng "cấu hình quy định" trong hợp đồng là không có căn cứ. Trong hồ sơ thầu được phê duyệt thì chỉ có quy định là "cấu hình tiêu chuẩn" chứ không có "cấu hình quy định". Và "cấu hình tiêu chuẩn" phải được hiểu đó là toàn bộ những chi tiết không thể thiếu trong tổng thành máy để máy hoạt động bình thường, đúng chức năng và yêu cầu thiết kế mà nhà sản xuất chế tạo ra.

    Chính vì vậy, tại công văn số 1910 ngày 30.8.2006 của Sở Y tế Hà Nội gửi bị đơn do bị đơn cung cấp trả lời đề nghị cho hướng giải quyết về việc nhà cung cấp (người uỷ quyền cho nguyên đơn bán hàng) của bị đơn cũng đã xác định "bộ biến năng" chính là "đầu dò", và cũng đã cho rằng bị đơn có đủ điều kiện để xem xét và tiếp nhận máy Doppler nghe tim thai FD390.

    Toà án cũng đã tham khảo thêm ý kiến của Vụ trang thiết bị và công trình y tế về vấn đề này. Tại biên bản do Toà án lập ngày 21.12.2006, ý kiến của đại diện Vụ cũng khẳng định: cấu hình máy Doppler FD390 sẽ không có bộ biến năng, bộ biến năng chính là đầu dò.

    5. Từ phân tích trên thấy cần chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, bu��c bị đơn phải tiến hành nhận 12 máy siêu âm Toshiba hiệu Famio5-SSA-510A và 12 máy nghe tim thai Doppler FD390 với số serial đã được chỉ dẫn trong các giấy chứng nhận xuất xứ và chứng nhận chấp lượng kèm theo, tiếp tục thanh toán cho nguyên đơn đủ 67% trị giá hợp đồng tiếp theo. Hợp đồng quy định việc bảo hành thiết bị, chạy thử, các bên tiếp tục thực hiện như hợp đồng đã ký.

    Với các điều khoản khác của hợp đồng các bên tiếp tục thực hiện, nếu có tranh chấp và có yêu cầu các bên sẽ giải quyết tại vụ kiện khác.

    6. Đối với yêu cầu theo đơn phản tố đề ngày 03.11.2006, nộp Toà án ngày 08.11.2006 của Trung tâm y tế huyện Thanh Trì đã nộp dự phí.

    6.1. Nhận thấy: từ nhận định ở trên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Đối với 12 máy siêu âm hiện đang lưu gửi tại kho Trung tâm y tế huyện Thanh Trì: với các giấy chứng nhận chất lượng hàng hoá, chứng chỉ xuất xứ hàng hoá do hãng chấp nhận mà nguyên đơn xuất trình là phù hợp quy định của pháp luật.

    6.2. Đối với yêu cầu Trung tâm y tế huyện Thanh Trì đề nghị huỷ kết quả đấu thầu và hợp đồng kinh tế số 01/2005/HĐKT/ĐTCN-CNC-YTTT ngày 06.12.2005 vô hiệu.

    Nhận thấy: việc đấu thầu do Uỷ ban nhân dân huyện Thanh Trì duyệt, phê chuẩn ngày 05.12.2005. Trung tâm y tế huyện Thanh Trì là cơ quan thực hiện. Vì vậy, đề nghị huỷ kết quả đấu thầu của Trung tâm y tế huyện Thanh Trì không có căn cứ.

    6.3. Về yêu cầu bồi thường tiền phạt về vi phạm nghĩa vụ giao hàng và bồi thường thiệt hại cho Trung tâm y tế huyện Thanh Trì và các chi phí liên quan.

    Thấy rằng: Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu nguyên đơn, phía nguyên đơn không vi phạm nghĩa vụ giao hàng nên không thể chấp nhận yêu cầu của Trung tâm y tế huyện Thanh Trì.

    Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu phản tố của Trung tâm y tế huyện Thanh Trì. Trung tâm y tế huyện Thanh Trì chịu án phí do không được chấp nhận yêu cầu. Cụ thể: tiền phạt vi phạm nghĩa vụ giao hàng 8% x 3.432.000.000 đồng = 274.560.000 đồng. Tiền thuê bảo vệ kho tính đến ngày 07.10.2006: 6.350.000 đồng. Tổng: 280.910.000 đồng. Tiền thuê tư vấn 4.116.000 đồng.

    7. Công ty điện tử công nghiệp không được chấp nhận yêu cầu về lãi 105.000.000 đồng vì chưa có việc chậm thanh toán.

    - Công ty điện tử công nghiệp được chấp nhận phần tiền phạt 220.624.000 đồng tương ứng 8% của số tiền 2.757.800.000 đồng (tổng giá trị hợp đồng 4.116.000.000 đồng trừ tiền đã tạm ứng 1.234.800.000 đồng, trừ đi tiền bảo hành 3%: 123.480.000 đồng).

    8. Về án phí:

    8.1. Công ty điện tử công nghiệp chịu số tiền án phí phần không chấp nhận: 274.560.000 đồng - 220.624.000 đồng là 53.936.000 đồng.

    Cộng phần Công ty điện tử công nghiệp chịu án phí 158.936.000 đồng là 7.300.000 đồng, đối trừ 15.200.000 đồng dự phí đã nộp tại BL 7581 ngày 27.9.2006.

    8.2. Trung tâm y tế huyện Thanh Trì chịu án phí phần Trung tâm chịu phạt 8% nêu trên: 220.624.000 đồng và phần không được chấp nhận theo đơn phản tố. Tổng số tiền 505.830.000 đồng, án phí 18.000.000 đồng. Trung tâm đã nộp 5776000 ngày 24.11.2006 tại BL số 7535, nay nộp tiếp 12.224.000 đồng.

    Vì các lẽ trên

    Quyết định

    -----

    Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 29; điều 33, 35, 131, 159, 243 Bộ luật tố tụng dân sự.

    Căn cứ Nghị quyết số 01/2005 ngày 31.3.2005 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.

    Căn cứ điều 301, 303 Luật Thương mại.

    Căn cứ Thông tư liên tịch số01/TTLT-TATC-VKSTC-BTP-BTC ngày 17.6.1997 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, hướng dẫn thi hành án về tài sản.

    Căn cứ Nghị định 70 về án phí.

    Xử:

    I. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty điện tử công nghiệp:

    1. Trung tâm y tế huyện Thanh Trì phải tiến hành nhận 12 máy siêu âm đa năng đen trắng xách tay Toshiba hiệu Famio5-SSA-510A và 12 máy nghe tim thai Doppler FD390 với số serial đã được chỉ dẫn trong các giấy chứng nhận xuất xứ và chứng nhận chất lượng kèm theo.

    2. Trung tâm y tế huyện Thanh Trì tiếp tục thanh toán 67% trị giá hợp đồng là 2.757.720.000 đồng cho Công ty điện tử công nghiệp theo quy định tại hợp đồng.

    II. Việc lắp đặt, chạy thử, nghiệm thu, bảo hành, các bên tiếp tục thực hiện như hợp đồng 01/2005/HĐKT/ĐTCN-CNC-YTTT.

    Đối với các điều khoản khác của hợp đồng số 01/2005/HĐKT/ĐTCN-CNC-YTTT, các bên tiếp tục thực hiện như đã thoả thuận. Nếu có tranh chấp và có yêu cầu khởi kiện, các bên sẽ giải quyết ở vụ kiện khác.

    III. Chấp nhận yêu cầu đòi tiền phạt của Công ty điện tử công nghiệp với Trung tâm y tế huyện Thanh Trì. Trung tâm y tế huyện Thanh Trì phải chịu phạt 220.624.000 đồng (hai trăm hai mươi triệu sáu trăm hai mươi bốn nghìn đồng).

    Kể từ khi án có hiệu lực pháp luật mà Công ty điện tử công nghiệp có yêu cầu thi hành án nhưng Trung tâm y tế huyện Thanh Trì chưa trả được khoản tiền trên thì hàng tháng Trung tâm phải chịu lãi theo mức lãi suất quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định cho số tiền chưa trả, cho đến khi trả hết tiền.

    IV. Bác yêu cầu phản tố của Trung tâm y tế huyện Thanh Trì.

    Bác yêu cầu đòi tiền lãi của Công ty điện tử công nghiệp.

    Bác các yêu cầu khác của các bên.

    V. án phí:

    - Công ty điện tử công nghiệp chịu 7.300.000 đồng án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm. Xác nhận Công ty đã nộp 15.200.000 đồng dự phí tại biên lai số 7581 ngày 27.9.2006 của cơ quan thi hành án dân sự thành phố Hà Nội. Nay Công ty được hoàn lại 7.900.000 đồng.

    - Trung tâm y tế huyện Thanh Trì phải chịu 18.000.000 đồng án phí kinh doanh thương mại sơ th���m. Xác nhận Trung tâm đã nộp 5.776.000 đồng dự phí tại biên lai số 7535 ngày 24.11.2006 của cơ quan thi hành án dân sự thành phố Hà Nội. Trung tâm y tế huyện Thanh Trì phải nộp tiếp 12.224.000 đồng.

    Các bên có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày từ ngày tuyên án.

     

    Cập nhật bởi phamthanhhuu ngày 23/05/2013 10:53:44 SA
     
    5410 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận