Hiện nay, để đảm bảo người đăng ký kết hôn đang trong tình trạng chưa có vợ, chồng thì pháp luật hiện hành có quy định những người này phải làm giấy xác nhận tình trạng hôn nhân. Tuy nhiên, có những trường hợp sau khi được cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân thì người được cấp làm mất hoặc hết hiệu lực mà người được cấp vẫn chưa sử dụng. Vậy những người này có được cấp lại giấy xác nhận tình trạng hôn nhân theo quy định của pháp luật?
Căn cứ theo quy định tại khoản 6 Điều 22 Nghị định 123/2015/NĐ-CP quy định về thủ tục cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân như sau:
“Điều 22. Thủ tục cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân
[…]6. Trường hợp cá nhân yêu cầu cấp lại Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân để sử dụng vào mục đích khác hoặc do Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân đã hết thời hạn sử dụng theo quy định tại Điều 23 của Nghị định này, thì phải nộp lại Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân đã được cấp trước đó.”
Theo quy định trên thì trường hợp cá nhân yêu cầu cấp lại Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân do Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân đã hết thời hạn sử dụng thì phải nộp lại Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân đã được cấp trước đó.
Tuy nhiên, tại khoản 1 Điều 12 Thông tư 04/2020/TT-BTP quy định về cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân như sau: Trường hợp người yêu cầu cấp lại Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân để kết hôn mà không nộp lại được Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân đã được cấp trước đây, thì người yêu cầu phải trình bày rõ lý do không nộp lại được Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày tiếp nhận hồ sơ, cơ quan đăng ký hộ tịch có văn bản trao đổi với nơi dự định đăng ký kết hôn trước đây để xác minh. Trường hợp không xác minh được hoặc không nhận được kết quả xác minh thì cơ quan đăng ký hộ tịch cho phép người yêu cầu lập văn bản cam đoan về tình trạng hôn nhân theo quy định tại Điều 4, Điều 5 Thông tư 04/2020/TT-BTP.
Do vậy, đối với trường hợp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân đã hết hiệu lực hoặc bị mất thì vẫn được cấp lại giấy này với điều kiện người đề nghị cấp phải trình bày rõ lý do không nộp lại được và có thể cam đoan về tình trạng hôn nhân của mình. Người đề nghị cần đảm bảo sự trung thực, chịu trách nhiệm pháp lý trong việc cam đoan này.